KITÔ GIÁO

CHÍNH TRỊ

Tác giả : Nguyễn Nam Việt
Thuận Nghĩa, tháng 4-2005
(Lưu hành nội bộ)
 

 
NỘI DUNG

 

I. CHÍNH TRỊ THEO MẶC KHẢI KITÔ GIÁO

II. GIÁO HỘI VÀ CHÍNH TRỊ

III. ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN VÀ CHÍNH TRỊ

IV. KITÔ HỮU VÀ HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ

V. CHÍNH TRỊ VÀ ĐẠO ĐỨC

PHỤ LỤC : CHỈ DẪN CỦA THÁNH BỘ GIÁO LƯ ĐỨC TIN

 

 


  

 

TÀI LIỆU QUY CHIẾU

& THAM KHẢO

 

* Thánh Kinh Cựu ước và Tân Ước, Bản dịch của Nhóm Phiên dịch CGKPV, 1998.

* Văn kiện Công đồng chung Vaticanô II, Bản dịch Việt ngữ của Giáo hoàng Học viện Piô X, Đà Lạt, 1972.

* Bộ Giáo luật 1983.

* Những chỉ dẫn tín lư về một số vấn đề liên quan đến sự tham gia của người Công giáo trong đời sống chính trị, Thánh Bộ Giáo lư Đức tin ban hành ngày 24-11-2002.

* Những vấn đề lớn của Kitô hữu trong thế giới ngày nay, R. Veritas, 2001.

* Tin Chúa Giêsu nhưng không chấp nhận Giáo Hội, tại sao ? Nguyên tác "Cristo Ś, Chiesa No?" của Severino Dianich, 1994. Bản dịch Việt ngữ của Lm. Hi Hiền.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

I. CHÍNH TRỊ

THEO MẶC KHẢI KITÔ GIÁO

 

 

Từ ngữ

 

Một cách tổng quát, Từ điển Hán-Việt của Đào Duy Anh định nghĩa từ ngữ “chính trị” như sau : “Gọi chung những việc sắp đặt và thi hành để sửa trị một nước [1].

Chi tiết hơn, Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam chỉ rơ 5 nghĩa của từ “chính trị” [2]:

1. Những vấn đề về tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước, và về quan hệ về mặt nhà nước giữa các nước với nhau (nói tổng quát).

2. Những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng, một tập đoàn xă hội nhằm giành hoặc duy tŕ quyền điều khiển bộ máy nhà nước (nói tổng quát).

3. Những hiểu biết về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp, một chính đảng nhằm giành hoặc duy tŕ quyền điều khiển bộ máy nhà nước (nói tổng quát).

4. Những hoạt động nhằm nâng cao giác ngộ cho quần chúng, tổ chức quần chúng thực hiện một đường lối, những nhiệm vụ nhất định (nói khái quát).

5. Sự khéo léo đối xử để đạt mục đích mong muốn.

Nh́n chung, chính trị là một từ ngữ đa dạng và hàm hồ. Ở đây, chúng ta chỉ nói đến một sinh hoạt có tổ chức mà mục đích là phục vụ cho thiện ích của xă hội, hoặc có những nhóm đặc thù hiện diện trong xă hội nhắm đến công ích. Cứu cánh và nội tại của chính trị là công ích của toàn dân tộc và tất cả mọi nhóm.

Một sinh hoạt chính trị tốt nhằm giúp cho con người được sống trung thành trong tự do và liên đới xứng với phẩm giá con người, đồng thời thể hiện được công lư và ḥa b́nh trong xă hội. Kết quả tốt nhất mà sinh hoạt xă hội phải đạt tới là thiết lập một công quyền nhằm thăng tiến tự do. Dĩ nhiên, tự do ở đây không thể hiểu như là tự do và quyền lợi của cá nhân, mà là tự do trong một xă hội có tổ chức, trong đó tự do cá nhân được thể hiện, như t́nh liên đới và công bằng nhắm tới thiện ích của người khác nữa.

Để cho công quyền được thiết lập nhằm thăng tiến tự do trên mọi quy mô, cần phải có sự hỗ tương giữa chính trị và mọi sinh hoạt khác của con người như văn hóa, kinh tế, gia đ́nh và tôn giáo, mà vẫn bảo đảm và tôn trọng tự do cá nhân.

- Mặc khải Kitô giáo nói ǵ về chính trị ?

- Đâu là trách nhiệm của Kitô hữu trong sinh hoạt chính trị ?

- Đâu là những câu hỏi mà những người có niềm tin không thể né tránh ?

 

Thánh Kinh nói ǵ ?

 

Thoạt nh́n qua, chúng ta có cảm tưởng như Tin Mừng hoàn toàn có tính cách phi chính trị. Chúa Giêsu không hề là một chính trị gia, Ngài cũng chẳng trao quyền hành chính trị cho các tông đồ và môn đệ của Ngài. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ t́m thấy được trong Tin Mừng bất cứ một đoạn nào nói đến đường hướng chính trị mà Chúa Giêsu vạch ra cho các môn đệ. Chúng ta cũng không hề đọc được một nơi nào nói rằng các môn đệ được kêu gọi để tổ chức thành một đảng phái chính trị bên cạnh những đảng phái khác.

Tuy nhiên, sứ điệp của mặc khải thiết yếu là một sứ điệp giải phóng. Sứ điệp giải phóng ấy cũng có giá trị đối với lĩnh vực chính trị và đối với nguy cơ của quyền lực chính trị. Điều này được thấy rơ trong Cựu ước. Toàn bộ Cựu ước là một cuốn sách mang màu sắc chính trị. Điển h́nh nhất là cuộc xuất hành của dân Do-thái ra khỏi ách nô lệ Ai-cập. Đây hẳn là một biến cố chính trị. Sách các Ngôn sứ là một tiếng kêu than của những người bị những thế lực chính trị đàn áp bóc lột. Bên cạnh những tố cáo về t́nh trạng bất công do các thế lực chính trị gây nên, Cựu ước c̣n hàm chứa những lời hứa về một vương quốc thịnh vượng thái b́nh [3]. Vương quốc ấy sẽ không c̣n theo gương các đế quốc, nhưng sẽ là một đầy tớ phục vụ các dân tộc.

Khi loan báo về Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu thường sử dụng những h́nh ảnh có tính cách chính trị, nhưng Ngài khẳng định rơ ràng Nước Thiên Chúa không hề dính dáng với bất cứ quyền lực chính trị nào. Một trong những đề tài chính yếu của Tin Mừng là cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và những kẻ có quan niệm về một Đấng Mêsia chính trị. Chúng ta thấy rơ điều đó ngay trong đoạn Tin Mừng tường thuật về cơn cám dỗ của Ngài [4]. Ma quỷ muốn biến Chúa Giêsu thành một thủ lĩnh chính trị.

Mong đợi một nước Israel hùng cường và sự lănh đạo của một vị vua anh hùng, đó là tâm thức chung của những người Do-thái đương thời với Chúa Giêsu. Ngài quả là Đấng Cứu Thế được Thiên Chúa sai đến, nhưng để tránh mọi hiểu lầm, Chúa Giêsu đă không cho phép các môn đệ công khai tôn vinh Ngài dưới danh hiệu Đấng Mêsia hay Đức Kitô. Liền sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Đấng Mêsia, Chúa Giêsu đă nghiêm cấm các ông loan báo tước hiệu ấy : “Ngài cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô [5]. Thật ra, Phêrô cũng không am hiểu tường tận tước hiệu Mêsia ấy, chính v́ thế khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn của Ngài, ông đă can gián Ngài. Phêrô can gián Chúa Giêsu, bởi v́ trong đầu óc của ông, Chúa Giêsu là Đấng Mêsia hoàn toàn theo ư nghĩa thế tục, nghĩa là một nhà chính trị tài ba. Cũng v́ thế, Chúa Giêsu đă quở trách ông rất nặng lời : “Satan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, v́ tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” [6]

Nhiều lần, người ta có cảm tưởng rằng kẻ thù chính của Chúa Giêsu là những người Biệt phái. Thật ra, Chúa Giêsu đă làm tất cả để thuyết phục họ, và cuối cùng một số đă đón nhận Tin Mừng và tin vào sự sống lại của Ngài. Kẻ thù cuồng tín nhất của Ngài chính là giai cấp thống trị, gồm đa phần những người thuộc phái Sa-đốc, những người không tin ở sự sống lại và sự sống bên kia cơi chết, cho nên chỉ t́m ơn cứu rỗi trong cuộc sống trần thế, tức lĩnh vực chính trị mà thôi.

Trong Tin Mừng của ngài, thánh Luca dường như muốn cố gắng chứng minh rằng dân Do-thái nói chung phải gánh chịu về cái chết của Chúa Giêsu. Phải gánh chịu tất cả là giới lănh đạo tôn giáo, bởi v́ chính họ đă cấu kết với nhà cầm quyền Roma để loại trừ Chúa Giêsu. Hành động như thế, các nhà lănh đạo đă tự hạ xuống hàng những chính trị gia.

Chúa Giêsu không tự nhận và cũng chẳng cư xử như một nhà chính trị, thế nhưng, Tin Mừng không hề dửng dưng trước những biến cố chính trị.

 

ef

 

 

 

 

II. GIÁO HỘI

VÀ CHÍNH TRỊ

 

 

Nhiều người cho rằng Giáo Hội phải đứng bên ngoài sinh hoạt và tranh chấp chính trị, chỉ chuyên lo mục vụ mà thôi.

Một nhận định như thế có phù hợp với Tin Mừng không ?

Đâu là vai tṛ của Giáo Hội trong sinh hoạt trần thế ?

Để trả lời cho những câu hỏi này, chúng ta cần nh́n lại chính cuộc sống và giáo huấn của Chúa Giêsu.

 

Tin Mừng và những hệ lụy chính trị

 

Tin Mừng Chúa Giêsu về Nước Thiên Chúa chắc chắn không phải là một bản tuyên ngôn hay cương lĩnh chính trị. Tuy nhiên, Tin Mừng ấy có rất nhiều hệ lụy chính trị. Nước Thiên Chúa, như đă được Chúa Giêsu công bố, chính là sự hiện thực của những lời tiên báo của các ngôn sứ trong Cựu ước. Theo các vị ngôn sứ, sẽ có một vương quốc, trong đó không c̣n bất cứ h́nh thức nào của cảnh người thống trị người, mà trái lại, tất cả mọi người đều là đầy tớ của nhau [7]. Nơi nào Nước ấy được đón nhận, nơi đó người nghèo sẽ không c̣n bị bóc lột và khinh thị. Nơi đó ḷng nhân từ sẽ chữa trị mọi sự và công lư sẽ cứu văn mọi sự. Nơi đó những người kiến tạo ḥa b́nh một cách ôn ḥa sẽ được chúc phúc. Nơi đó, ngay cả những người bị bách hại cũng không c̣n thù hận, trái lại thể hiện sức mạnh của ḥa giải và t́nh thương.

Tám Mối Phúc hay c̣n được gọi là bản Hiến Chương Nước Trời là bản tuyên ngôn có tính cách mạng cao độ nhất. Bộ mặt xă hội và nhất là sinh hoạt chính trị sẽ đổi thay, nếu người người thực thi những lời kêu gọi ấy của Chúa Giêsu. Sứ điệp ấy được Chúa Giêsu trực tiếp ngỏ với những người nghèo của thời đại Ngài và tất cả những ai ngày nay vẫn c̣n bị áp bức. Trong khi đó, những người bị chúc dữ nặng nề nhất lại là những người giàu có đang chiếm giữ của cải, quyền bính và khước từ hoán cải. Chúa Giêsu kêu gọi họ không những quay về với Thiên Chúa, mà c̣n phải thực thi công bằng và bác ái với người nghèo.

Công bố một sứ điệp có nhiều hệ lụy chính trị, nhưng Chúa Giêsu khẳng định Nước Chúa không thuộc về thế gian này[8], nhất là Ngài không hề có bất cứ tham vọng chính trị nào. Nhiều lần Ngài đă t́m cách lẩn trốn dân chúng khi họ muốn đưa Ngài lên làm vua. Ngài không ngừng căn dặn các môn đệ đừng cho ai biết Ngài là Đấng Cứu Thế, v́ biết rằng đối với đám đông, hai chữ “cứu thế” hoàn toàn có nội dung chính trị. Thay v́ xuất hiện như một quân vương hay một tướng lĩnh hùng mạnh, Chúa Giêsu đă chọn lựa làm một người tôi tớ đau khổ. Nhưng một quyết định như thế cũng không tránh khỏi những hệ lụy chính trị. Ngài đă bị kết án treo trên thập giá, vốn là khổ h́nh của đế quốc Rôma dành cho những người nô lệ và các kẻ thù chính trị. Bản án Ngài được kư kết bởi những người đại diện cho quyền bính chính trị của đế quốc Rôma và những lănh đạo tôn giáo lợi dụng quyền bính chính trị.

Chúa Giêsu đă thấy rơ t́nh h́nh chính trị của thời đại Ngài. Sự kiện các Kitô hữu tuyên xưng niềm tin của họ vào Đấng bị đế quốc Rôma lên án, dĩ nhiên cũng không thoát khỏi những hệ lụy chính trị. Chúa Giêsu không làm chính trị theo nghĩa một chính trị gia, nhưng Ngài không ngừng tố cáo những lạm dụng trong lĩnh vực chính trị. Ngài không ngần ngại gọi vua Hêrôđê là con cáo [9], và xem ông như một tay đầu cơ chính trị tồi tàn. Ngài thường tố cáo tham vọng của những nhà lănh đạo trần thế.

Đối với những nhà lănh đạo trần thế, Chúa Giêsu xác định vai tṛ và thái độ của các môn đệ Ngài. Các vua chúa và thủ lĩnh trần gian bắt người ta hầu hạ phục vụ ḿnh, các môn đệ th́ không được như thế. “Ai muốn làm lớn giữa anh em, th́ phải làm người phục vụ anh em [10]. “Ai muốn làm người đứng đầu, th́ phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người [11]. Trước ṭa án của tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đă nhắc lại cho ông này biết rằng quyền bính mà ông có trong tay đến từ Thiên Chúa[12]. Nếu các môn đệ Chúa Kitô, nhất là những người có thẩm quyền trong Giáo Hội, quyết rập theo gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu, họ sẽ thực hiện được những thay đổi tận căn, ngay cả trong đời sống chính trị.

Chúa Giêsu đă không đi vào đấu trường chính trị như một đối thủ. Nhưng với tư cách của một ngôn sứ, Ngài đă tố cáo những tội ác và lạm dụng trong sinh hoạt chính trị, và quan trọng hơn nữa, Ngài đă đề ra một đường hướng rơ ràng cho các tín hữu và tất cả những ai thành tâm thiện chí. Giáo huấn của Ngài về phục vụ, ḥa giải, thanh liêm, công bằng, cũng chính là đường hướng chỉ đạo cho sinh hoạt chính trị. Nếu nhân loại đón nhận và thực thi sứ điệp của Chúa Giêsu, th́ công lư và ḥa b́nh sẽ đến. Lúc đó sẽ không c̣n chiến tranh, không c̣n cảnh người đàn áp và bóc lột người, không c̣n độc tài áp bức, không c̣n tham nhũng thối nát.

Tin Mừng giải phóng của Chúa Giêsu không chỉ giới hạn trong trật tự thiêng liêng. Chính v́ tội lỗi là căn nguyên của mọi sự dữ, mà sự giải phóng do Chúa Giêsu loan báo và thực hiện mang tính cách toàn diện, nghĩa là cũng bao trùm mọi chiều kích của cuộc sống con người.

 

Quan điểm của Giáo Hội

 

Đi theo con đường Chúa Giêsu đă vạch ra, Giáo Hội không xuất hiện như một đảng phái hay đối thủ chính trị của bất cứ một quyền bính trần gian nào. Công đồng Vaticanô II đă khẳng định :

V́ lư do chức vụ và thẩm quyền của ḿnh, Giáo Hội không cách nào bị đồng hóa với một cộng đoàn chính trị, và cũng không hề cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào v́ Giáo Hội vừa là dấu chỉ vừa là đảm bảo cho tính cách siêu việt của con người.

Cộng đoàn chính trị và Giáo Hội, mỗi bên với lĩnh vực riêng của ḿnh, đều độc lập và tự trị. Tuy nhiên, dầu dưới danh hiệu khác nhau, cả hai cũng đồng phục vụ cho con người trong sứ mệnh cá nhân và xă hội. Tùy theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả hai càng duy tŕ được sự cộng tác lành mạnh th́ cả hai càng phục vụ lợi ích của con người một cách hữu hiệu hơn.

Khi rao giảng chân lư Tin Mừng và lấy giáo lư và chứng tá của cuộc sống các Kitô hữu soi sáng mọi lĩnh vực của sinh hoạt con người, Giáo Hội cũng tôn trọng và cổ vũ tự do chính trị cũng như trách nhiệm của các công dân.

Giáo Hội cũng sẽ từ chối việc sử dụng một số quyền lợi đă được hưởng một cách chính đáng khi thấy rằng việc sử dụng những quyền lợi đó làm cho người ta nghi ngờ về ḷng thành thực muốn làm chứng nhân của ḿnh, hoặc trước những hoàn cảnh mới đ̣i hỏi phải xử sự cách khác. Tuy nhiên, bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào, Giáo Hội cũng phải được tự do rao giảng đức tin, truyền bá học thuyết xă hội của ḿnh cũng như được dễ dàng chu toàn sứ mệnh của ḿnh giữa loài người. Giáo Hội cũng phải được quyền nói lên nhận định luân lư của ḿnh về cả những vấn đề liên quan đến lĩnh vực chính trị khi quyền lợi căn bản của con người hay phần rỗi các linh hồn đ̣i hỏi”.[13]

Hoạt động của Giáo Hội không chỉ giới hạn trong lĩnh vực tôn giáo nhưng bao quát tất cả mọi khía cạnh trong đời sống con người. Là thành phần của xă hội, Giáo Hội cũng có đủ quyền lợi như tất cả các tổ chức khác trong xă hội. V́ thế, nói rằng Giáo Hội không được quyền làm chính trị là một nhận định hàm hồ và lố bịch. Giống như các tổ chức khác, Giáo Hội có quyền làm chính trị và cũng phải tôn trọng các luật lệ được nhà nước ấn định trong lănh vực này. Không có đặc ân nào dành riêng cho Giáo Hội.

Tuy nhiên, v́ lợi ích thực tế, để khỏi bị ràng buộc, g̣ bó trong lănh vực phức tạp này cũng như để có thể chu toàn bổn phận rao giảng và nuôi dưỡng đức tin người tín hữu, Giáo Hội không làm chính trị như là một tổ chức đảng phái trong xă hội. Điều này không có nghĩa Giáo Hội không bận tâm đến các vấn đề chính trị. Trái lại, với trách nhiệm mang lại ơn cứu rỗi cho thế giới, Giáo Hội rất quan tâm đến những vấn đề đang thật sự đụng chạm đến con người như chiến tranh, ḥa b́nh, bất công, tự do, giá trị gia đ́nh... để t́m cách bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người.

Trong Giáo Hội, ngoài các cơ cấu chính yếu c̣n có những tổ chức khác được thành lập do sáng kiến cá nhân hay đoàn thể mang tinh thần Kitô giáo với mục đích hoạt động trong lănh vực xă hội và chính trị. Các đảng Dân chủ Thiên Chúa Giáo ở Âu Châu là một thí dụ điển h́nh. Các đảng phái này không do Giáo Hội thành lập và chịu trách nhiệm. V́ thế, ngay trong một quốc gia, vẫn có thể cùng một lúc có nhiều tổ chức chính trị mang tinh thần Kitô giáo cùng hoạt động nhưng với lập trường khác nhau tùy theo sáng kiến của mỗi tổ chức. Đối với các tổ chức chính trị này, các vị chủ chăn trong Giáo Hội không dùng quyền giáo huấn để ép buộc họ hoạt động theo ư muốn của ḿnh, nhưng nhắc nhở và khuyến khích các tổ chức này đừng đánh mất các giá trị Kitô giáo khi tham gia hoạt động chính trị. Đàng khác, các tổ chức này cũng không nên đ̣i hỏi các vị chủ chăn phải hoàn toàn thinh lặng trước các vấn đề chính trị. Các Giám mục hay linh mục có bổn phận phải lên tiếng khi các hoạt động chính trị một cách nào đó làm tổn thương phẩm giá con người và nghịch lại với Tin Mừng. Tuy nhiên, đứng trước các vấn đề này, Giáo Hội chỉ đưa ra những nguyên tắc dựa trên Tin Mừng, c̣n về phương thức hành động cụ thể, Giáo Hội dành quyền lại cho các tổ chức chính trị mang tinh thần Kitô giáo.

Trong quá khứ, đă có lúc Giáo Hội chính trị hóa cấp lănh đạo. Đức Giáo Hoàng trở thành vị nguyên thủy quốc gia, trong khi dân chúng chẳng hiểu biết ǵ về chính trị. Ngày nay, ngược lại tầng lớp dân chúng cần hiểu biết chính trị để can đảm lănh lấy trách nhiệm người công dân trong xă hội, trong khi cấp lănh đạo cần trở lại đúng vai tṛ của ḿnh là rao giảng Tin Mừng, nuôi dưỡng đức tin và bảo vệ sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Như thế, làm chính trị là trách nhiệm của người giáo dân. Và khi tham gia chính trị, mục tiêu trước tiên của người giáo dân là làm nổi bật các giá trị Tin Mừng qua đường lối hoạt động của ḿnh.

 

 

 

 

a??b

 

 

 

 

 

 

III. ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN

VÀ CHÍNH TRỊ

 

Chọn lựa niềm tin tôn giáo

cũng là một chọn lựa chính trị

 

Chúa Giêsu không hề đưa ra một giáo huấn minh thị nào về chính trị và nhất là Ngài không hề xuất hiện như một chính trị gia. Tuy nhiên cái chết của Ngài đă diễn ra trong một bối cảnh chính trị. Dù muốn hay không, cái chết ấy vẫn là một vụ án chính trị. Điều này cho phép khẳng định rằng cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu cũng như của cộng đồng tiên khởi đều có liên hệ đến chính trị. Chối bỏ chiều kích chính trị của công cuộc cứu rỗi là một cái nh́n phiến diện… Trong biểu hiện của nó, tôn giáo cũng như toàn bộ cuộc sống con người đều có chiều kích chính trị.

Nói cách khác, v́ là sinh hoạt cơ bản của con người nên tôn giáo không thể đứng bên lề sinh hoạt chính trị. Chọn lựa một niềm tin tôn giáo thiết yếu cũng là một chọn lựa chính trị. Cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và giới lănh đạo trần thế của thời đại Ngài luôn bao hàm một chọn lựa chính trị. Thánh Phaolô đă biết rơ điều đó khi ngài viết trong thư gửi giáo đoàn Philipphê :

Thưa anh em, xin hăy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nh́n vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. V́, như tôi đă nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô : chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. C̣n chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng ḷng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. [14].

Với những lời trên đây, thánh Phaolô chẳng những cảnh cáo các tín hữu về thái độ hoàn toàn gắn chặt với những điều thuộc thế gian, mà c̣n chống lại tham vọng của hoàng đế Rôma bắt mọi thần dân phải tuân theo tôn giáo của ông và nhất là tự nhận ḿnh là đấng cứu độ của họ.

Chúa Giêsu bị án tử h́nh v́ Ngài bị tố cáo đă tự xưng là vua, và như vậy là chống lại hoàng đế Rôma. Các tín hữu tiên khởi bị bách hại v́ họ không chấp nhận tôn giáo của đế quốc và không tôn thờ hoàng đế như là vị cứu tinh của họ. Tất cả những cuộc bách hại diễn ra trong suốt lịch sử Giáo Hội cũng đều là bằng chứng cho thấy niềm tin vào Chúa Kitô luôn đặt các tín hữu vào thế đối lập với thế quyền.

 

Việc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô

là một chọn lựa chính trị

 

Như vậy dù muốn hay không, việc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô là một chọn lựa chính trị. Chính v́ tin và tuyên xưng Chúa Kitô mà tôi không được thỏa hiệp với chế độ nào chối bỏ và chà đạp phẩm giá con người. Đ̣i hỏi này lại càng rơ nét hơn khi Giáo Hội tưởng niệm cái chết của Chúa Kitô. Làm sao tưởng niệm cái chết của Chúa Kitô mà không nghĩ đến bao nhiêu người đang đau khổ, nhất là những người đang đau khổ v́ những bất công đầy dẫy trên thế giới ? Một niềm tin đích thực không cho phép người tín hữu được dửng dưng và đứng bên lề cuộc sống. Ngay cả một thể hiện thầm kín nhất của niềm tin là sự cầu nguyện cũng không thể diễn ra bên lề cuộc sống, và như vậy, ít hay nhiều đều gắn liền với chính trị.

Trong lời cầu nguyện, các Kitô hữu đi vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ và là người anh em của mọi người. Trong lời cầu nguyện, họ gọi Thiên Chúa là “Cha chúng con”, Đấng kêu gọi con cái Ngài quy tụ thành một gia đ́nh. Nếu trong lời cầu nguyện, các tín hữu xin cho Danh Cha cả sáng, họ cũng nh́n nhận rằng những người vô danh đang đi trên đường đời cũng là những người anh em của họ. Nếu trong lời cầu nguyện, họ nh́n nhận mọi người là anh em, th́ đương nhiên họ không được xem người khác như là một phương tiện để sử dụng hoặc lèo lái. Nếu trong lời cầu nguyện, họ xin cho Nước Chúa được hiển trị, th́ họ cũng ước mong rằng công lư và ḥa b́nh, liên đới và huynh đệ ngự trị trong các quan hệ giữa người với người, để không c̣n cảnh người bóc lột hay hay chà đạp người. Nếu trong lời cầu nguyện, họ gọi Thiên Chúa là “Cha chúng con”, th́ lương thực hằng ngày mà họ cầu xin cũng là lương thực cho mọi người.

Như vậy, phụng vụ Kitô giáo có một âm hưởng đặc biệt trong thực tế chính trị, cho dù nó không nhất thiết có nội dung chính trị.

 

 

 

 

 

 

a°b

 

 

 

 

 

 

 

 

IV. KITÔ HỮU

VÀ HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ

 

Có một hoạt động chính trị

của các Kitô hữu không ?

 

Sống giữa trần thế, tham gia vào mọi sinh hoạt xă hội và cộng tác với mọi người, các Kitô hữu không khỏi nêu lên câu hỏi : Có một thứ chính trị Kitô giáo hay không ? Hay đúng hơn : Có một hoạt động chính trị của các Kitô hữu không ?

Tại các nước có đa số theo Kitô giáo, các Kitô hữu hiện diện và hoạt động rất tích cực trong những sinh hoạt chính trị. Nhưng có chính trị là có khác biệt và ngay cả đối lập trong những chọn lựa chính trị : có người tích cực hoạt động trong đảng đang cầm quyền, có người đứng bên hàng ngũ đối lập, có người ủng hộ việc tu chỉnh hiến pháp nhưng cũng có người cực lực chống lại ư tưởng này, v.v..

Một đảng phái, một chọn lựa chính trị hay một học thuyết kinh tế, không xác định niềm tin tôn giáo của một người. Khi một người đến gặp một linh mục để xin chịu phép rửa tội, thêm sức, xưng tội hay bất cứ bí tích nào, linh mục đó không bao giờ hỏi lập trường chính trị của người ấy.

Dĩ nhiên, có những chọn lựa chính trị không phù hợp với đức tin Công giáo. Gia nhập một đảng chính trị có chủ trương cho phá thai chẳng hạn, xem ra không phải là điều phù hợp với đức tin Công giáo. Lại càng là điều mâu thuẫn hơn nữa, nếu vừa tuyên xưng đức tin Công giáo, lại vừa là đảng viên của một đảng phái xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa duy vật vô thần hay có chủ trương diệt chủng.

Có những chọn lựa chính trị không phù hợp với đức tin Công giáo, điều đó thật hiển nhiên. Nhưng Kitô giáo hay Giáo Hội không hề là một đảng phái chính trị. Chúa Giêsu đă không bao giờ soạn ra một cương lĩnh chính trị và cá nhân Ngài cũng không bao giờ xuất hiện như một chính trị gia. Do đó, chúng ta không thể nói đến một thứ chính trị Kitô giáo.

Có nhiều lư do để khẳng định rằng không hề có bất cứ một thứ chính trị Kitô giáo nào. Trước hết, bởi v́ các Kitô hữu không bao giờ nắm độc quyền về chính trị. Chúa Thánh Thần có thể tác đông và gieo văi sự khôn ngoan khắp mọi nơi và cho mọi người. Thứ đến, không một Kitô hữu nào có đủ can đảm để gọi hoạt động chính trị của ḿnh là Kitô giáo. Hoạt động chính trị tự nó bất toàn đến độ thật là bất kính và xúc phạm đến Danh Chúa Kitô khi gọi hoạt động ấy là Kitô giáo. Cuối cùng, các Kitô hữu có thể có những chọn lựa chính trị khác nhau mà vẫn trung thành với đức tin và lương tâm của ḿnh.

Không có và không nên có một thứ chính trị Kitô giáo, theo nghĩa xem Kitô giáo như một ư thức hệ chính trị, hay xem Giáo Hội như một đảng phái chính trị. Nhưng nói thế không có nghĩa là nhân danh nguyên tắc tách biệt giữa Giáo Hội và nhà nước để gạt Giáo Hội ra bên lề những sinh hoạt chính trị và chối bỏ nghĩa vụ phải tham gia các hoạt động trần thế của người Kitô hữu. Như một người công dân, người Kitô hữu có quyền và phải tham gia vào các sinh hoạt chính trị, nhất là như người môn đệ Chúa Kitô, họ c̣n có bổn phận tranh đấu cho công lư và tự do, đặc biệt ở những nơi nào các giá trị này bị chối bỏ và chà đạp. Đây vốn là nghĩa vụ mà các chủ chăn trong Giáo Hội không ngừng nhắc nhở cho các tín hữu.

Không có một thứ chính trị Kitô giáo, nhưng có hoạt động của các Kitô hữu trong lĩnh vực chính trị. Một Kitô hữu chân chính, nghĩa là muốn sống trọn niềm tin của ḿnh, phải làm tất cả v́ t́nh yêu Chúa Kitô. Nếu mến Chúa và yêu người là giới răn nền tảng nhất mà họ phải thực thi mọi nơi mọi lúc, th́ điều đó cũng có giá trị ngay cả và nhất là trong những chọn lựa chính trị của họ. Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là họ biến đổi toàn bộ hoạt động chính trị thành hoạt động yêu thương và bác ái. Chính trị không phải là vương quốc hoàn hảo của t́nh yêu, cũng như nhà nước không thể là Nước Chúa. Tuy nhiên hoạt động của các Kitô hữu phải và có thể thực thi v́ động lực t́nh yêu. Ở đâu có t́nh yêu đích thực, ở đó chính trị không chỉ đồng nghĩa với tham vọng và quyền bính.

Nhưng dù muốn hay không, hoạt động chính trị sẽ không bao giờ thuần túy là t́nh yêu. Có chính trị là có quyền bính, vấn đề là làm thế nào để thực thi quyền bính mà vẫn sống trong tinh thần yêu thương. Phân biệt hai lĩnh vực công tư là điều chính đáng cần phải làm. Không thể biến công sở thành nhà thờ và cũng không nên biến nhà thờ thành đấu trường chính trị. Tuy nhiên, như thánh Phaolô khuyên nhủ : “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc ǵ, anh em hăy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa [15]. Trong mọi sinh hoạt trần thế, họ phải sống và cư xử thế nào để những lựa chọn của họ luôn phù hợp với niềm tin và diễn đạt được niềm tin của họ. Họ phải ra sức lấy niềm tin thâm nhập mọi thực tại trần thế, họ phải thánh hóa mọi sinh hoạt của họ. Niềm tin phải là thước đo, là đèn pha soi dẫn mọi chọn lựa và phán đoán của họ. Một cái nh́n kitô trong sáng sẽ giúp họ tránh khỏi thái độ cuồng tín, và như vậy có thể đi vào đối thoại với mọi người cũng như tôn trọng những chọn lựa của người khác.

 

Giáo huấn của Giáo Hội

 

Về điểm này, chúng ta có thể đọc lại những hướng dẫn rơ ràng của Công đồng Vaticanô II :

Tất cả mọi Kitô hữu phải ư thức về sứ mệnh đặc biệt của ḿnh trong cộng đoàn chính trị. Họ phải nêu gương sáng bằng cách phát triển ư thức trách nhiệm nơi chính ḿnh và tận tâm phục vụ công ích. Nhờ thế, qua hành động, họ cũng chứng minh cho thấy rằng làm sao dung ḥa được quyền bính với tự do, sáng kiến cá nhân với sự liên đới và những đ̣i hỏi của toàn thể xă hội, dung ḥa được sự hiệp nhất sinh ích với những dị biệt phong phú. Trong việc tổ chức trần thế, họ phải nh́n nhận những quan điểm chính đáng, dầu đối chọi nhau. Họ phải tôn trọng các công dân khác hay các đoàn thể khi người này bênh vực quan điểm của chính ḿnh cách thẳng thắn. Những đảng phái chính trị có bổn phận cổ vũ những ǵ họ xét thấy cần cho công ích, chứ không bao giờ được đặt quyền lợi riêng trên công ích.

Muốn cho mọi công dân xứng đáng nắm giữ vai tṛ của họ trong đời sống của cộng đoàn chính trị, cần phải hết sức quan tâm đến việc giáo dục cả về công dân lẫn chính trị. Việc giáo dục này ngày nay rất cần thiết cho mọi người, nhất là cho giới trẻ. Những ai có khả năng hoặc có thể có khả năng làm chính trị- một nghệ thuật khó khăn, nhưng đồng thời rất cao cả - cần phải được chuẩn bị trước, họ phải hăng hái và không màng tới tư lợi hay lợi lộc vật chất. Họ phải đem đời sống thanh liêm và sự khôn ngoan chống lại bất công áp bức, chống độc tài và ngoan cố của mộ cá nhân hay một đảng phái chính trị. Họ phải đem ḷng trung thành và chính trực, t́nh thương và ḷng dũng cảm phải có vào trong hoạt động chính trị để tận tâm phục vụ lợi ích cho mọi người. [16]

Thánh Bộ Giáo lư Đức tin chỉ rơ :

Bằng việc chu toàn các nghĩa vụ dân sự của ḿnh, "theo lương tâm của một người Kitô hữu",[17] hợp với các giá trị Kitô Giáo, người tín hữu thi hành công việc xứng hợp của ḿnh là đem các giá trị Kitô Giáo vào trong các trật tự trần thế, trong khi tôn trọng bản chất và sự trung lập đúng đắn của trật tự này, [18] và hợp tác với các công dân khác theo khả năng và trách nhiệm chuyên biệt của họ.[19] Hệ quả của giáo huấn căn bản từ Công Đồng Vatican II này là “người tín hữu không bao giờ được từ bỏ sự tham gia của họ trong ‘đời sống công cộng’, nghĩa là, trong các lănh vực khác nhau về kinh tế, xă hội, lập pháp, hành pháp và văn hóa, nhằm đem lại lợi ích chung cách cụ thể và hợp pháp".[20] Điều này bao gồm sự đề cao và bảo vệ các thiện ích như ḥa b́nh, tự do và b́nh đẳng, tôn trọng đời sống con người và môi trường sống, công lư và t́nh liên đới.

Giáo Hội nhận thức rằng trong khi chế độ dân chủ là h́nh thức tốt nhất cho sự tham dự trực tiếp của công dân trong các lựa chọn chính trị, chế độ dân chủ chỉ có thể thành công khi nào nó dựa trên một nhận thức đúng đắn về nhân sinh.[21] Sự tham gia của người Công Giáo trong đời sống chính trị không thể nhân nhượng về nguyên tắc này, nếu không chứng tá của đức tin Kitô Giáo với thế giới, cũng như sự hiệp nhất và sự nhất quán nội tại của người tín hữu không tồn tại.”

Qua những can thiệp trong lănh vực này, Huấn Quyền Hội Thánh không muốn hành xử quyền lực chính trị hay loại trừ tự do ư kiến của những người Công giáo. Thay vào đó, Huấn Quyền có ư muốn - theo như chức năng xứng hợp của ḿnh - là hướng dẫn và soi sáng lương tâm của các tín hữu, đặc biệt là những ai tham gia vào đời sống chính trị sao cho hành động của họ luôn phục vụ sự thăng tiến thiết yếu của con người và công ích”.[22]

Riêng đối với hàng giáo sĩ, Giáo Hội đă dự liệu bằng những điều khoản rơ ràng và dứt khoát :

Cấm các giáo sĩ đảm nhận những chức vụ công quyền có kèm theo việc hành sử quyền bính dân sự”.[23]

Các giáo sĩ không được tham gia tích cực vào các đảng phái chính trị, hoặc dự phần lănh đạo trong các nghiệp đoàn, trừ khi nào, theo phán đoán của nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội, việc bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội và cổ vơ công ích đ̣i hỏi như vậy”.[24]

Những điều ngăn cấm này thường được gọi tắt là cấm làm chính trị. Lư do là v́ các giáo sĩ phải lo “tận lực cổ vơ duy tŕ hoà b́nh và hoà đồng giữa mọi người, dựa trên nền tảng công bằng”.[25]

Tuy nhiên việc cấm giáo sĩ làm chính trị cần được hiểu là cấm tham dự vào việc cai trị, cấm gia nhập đảng phái, xét v́ những tư thế ấy dễ biến giáo sĩ thành dụng cụ của một phe nhóm thủ lợi, và như vậy không c̣n biểu lộ t́nh thương đại đồng của mục tử. Tuy nhiên không ai ngăn cấm giáo sĩ sử dụng quyền công dân, chẳng hạn như việc bỏ phiếu chọn người lănh đạo (là một hành vi chính trị), cũng như không ai ngăn cản giáo sĩ tŕnh bày ư kiến của ḿnh về các vấn đề chính trị, đặc biệt dưới khía cạnh luân lư khi phải bảo vệ công lư ḥa b́nh.

 

 

 

 

 

 

 

 

V. CHÍNH TRỊ

VÀ ĐẠO ĐỨC

 

 

Nói đến chính trị, người ta thường liên tưởng ngay đến tham vọng, tranh giành, thủ đoạn, ma giáo. Thời xa xưa, dù có tàn ác và dâm loạn đến đâu, các vua chúa vẫn xưng ḿnh là thiên tử và là ân nhân của thần dân. Trong các xă hội dân chủ, các nhà lănh đạo lại đưa ra những khẩu hiệu đạo đức để mị dân. Người dân th́ trái lại, lắm khi không màng đến phẩm chất của người lănh đạo, bởi v́ họ cho rằng chính trị không phải là môi trường của đạo đức.

Nhưng dù muốn hay không, nếu chính trị gợi lên thủ đoạn, ma giáo, là bởi v́ nó không thể đứng bên ngoài đạo đức. Nói đến chính trị là nói đến công bằng và bất công, lại nói đến thiện và ác. Cho nên nói đến chính trị cũng là nói đến đạo đức.

Vào thế kỷ XVI, tác giả Machiavel (1469-1527, người Ư) là người đầu tiên đưa ra chủ trương chính trị phi đạo đức. Theo ông, đạo đức và tôn giáo chỉ có lợi trong mức độ nó giúp cho thần dân biết tùng phục quyền bính mà thôi. Nhưng người cai trị chỉ nên hành động theo nguyên tắc tối thượng là làm mọi cách để nắm giữ quyền hành trong tay. Họ có thể sử dụng mọi phương tiện, miễn là đạt được cứu cánh. Trong tác phẩm có tựa đề Le Prince (Quân vương), Machiavel đă đưa ra hai nguyên tắc như sau : dũng cảm trong chiến tranh và quỷ quyệt khi sử dụng quyền bính. Với một chủ trương như thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên tại sao trong các ngôn ngữ Tây phương, tên tuổi  của Machiavel đồng nghĩa với sự xảo quyệt.

Vào thế kỷ XIX, chịu ảnh hưởng của chủ thuyết duy thực nghiệm, Karl Marx cũng muốn giải phóng chính trị khỏi mọi ràng buộc của đạo đức. Xă hội chủ nghĩa tự xưng là khoa học không c̣n dành cho đạo đức bất cứ một chỗ đứng nào trong sinh hoạt chính trị và kinh tế. Những người tuyên xưng chủ nghĩa khoa học như một thứ tôn giáo mới xác tín rằng bản chất con người là kinh tế và các tiến tŕnh kinh tế sẽ tất yếu đưa con người đến một xă hội không c̣n giai cấp.

Dĩ nhiên khi một xă hội không c̣n giai cấp, nghĩa là không c̣n đấu tranh và cảnh người bóc lột người nữa, th́ đạo đức sẽ chỉ c̣n là một khái niệm thừa thăi vô ích. Bởi v́ trong các cơ cấu kinh tế được thiết lập sau cuộc cách mạng vô sản, mỗi người đều tự nhiên quan tâm đến công ích, mỗi người đều là con người mới xă hội chủ nghĩa, mỗi người đều v́ mọi người. Đây quả là một thiên đàng trần gian. Thế nhưng thực tế thật phũ phàng : con người mới xă hội chủ nghĩa không bao giờ thấy xuất hiện, chủ trương phi đạo đức nghĩa là lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện chỉ làm cho con người ngày càng mất nhân tính mà thôi.

Mặc khải Do-thái và Kitô giáo luôn khẳng định mối dây bất khả phân ly giữa đạo đức và chính trị. Bất cứ ai nghiên cứu lịch sử của các ngôn sứ trong Cựu ước và của tất cả các ngôn sứ trong lịch sử của Giáo Hội và các tôn giáo lớn khác của nhân loại đă không thể phủ nhận rằng niềm tin tôn giáo ảnh hưởng sâu rộng trên đạo đức chính trị. Lịch sử cho thấy bất cứ chế độ nào chối bỏ và chà đạp tôn giáo cũng đều tự kết án cho ḿnh tới chỗ hủy diệt. Triết gia Platon của Hy Lạp đă nói một cách rất chí lư : “Có thể xây một thành tŕ trên chín tầng mây dễ hơn là cai trị một dân tộc không có tôn giáo”. Hay nói như văn hào Chateaubriand của Pháp : “Tiêu diệt việc thờ phượng của Tin Mừng, th́ mỗi làng phải xây nhiều nhà tù và phải có nhiều lư h́nh”.

Tôn giáo và đạo đức làm cho con người trở thành những công dân tốt đă đành, mà c̣n mang lại những nguyên tắc nền tảng cho chính trị. Muốn hay không, người ta phải nh́n nhận rằng bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền mà Liên hiệp quốc đă công bố năm 1948, ít hay nhiều đều được xây dựng trên các chân lư nền tảng của các tôn giáo nói chung và của Kitô giáo nói riêng. Tôn trọng các quyền cơ bản của con người v́ con người có một phẩm giá bất khả xâm phạm, đó là một trong những chân lư nền tảng của Kitô giáo. Chính trị không thể loại bỏ tôn giáo và đạo đức. Tuy nhiên một khi chính trị đồng hóa với tôn giáo và đạo đức th́ chính trị sẽ rơi vào cuồng tín, đây là trường hợp thường xảy ra khi một tôn giáo trở thành quốc giáo.

Cuồng tín tôn giáo vẫn là thái độ phi đạo đức nhất. Lịch sử đă chứng minh sự tai hại của thái độ cuồng tín ấy. Khi mọi người đều tin có một Thiên Chúa độc nhất là Cha của mọi người, th́ niềm tin ấy tự bản chất có thể là yếu tố giải ḥa mỗi khi có xung đột. Nhưng thực tế lại cho thấy rằng niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất ấy không nhất thiết làm phát sinh sự thống nhất về chính trị. Điển h́nh nhất là những cuộc thánh chiến giữa Kitô giáo, Hồi giáo và Do-thái giáo : mỗi bên đều nhân danh Thiên Chúa để mở ra những cuộc thánh chiến để loại trừ bên kia. Nhân danh tôn giáo của ḿnh, các quốc gia tự xưng là Kitô giáo cũng chém giết nhau không chút xót thương trong những thế kỷ gần đây. Mỗi bên đều lấy niềm tin tôn giáo để phục vụ cho tinh thần ái quốc cuồng tín của ḿnh.

Thực ra, tôn giáo và đạo đức không cuồng tín mà chỉ có những con người cuồng tín mà thôi. Chính thái độ cuồng tín ấy đă được các nhà chính trị lợi dụng để nuôi dưỡng tham vọng và củng cố quyền lực của ḿnh. Tôn giáo và đạo đức lúc đó chỉ c̣n là một dụng cụ trong tay chính trị mà thôi. Hitler đă lợi dụng tôn giáo để đề cao sự siêu việt của ḍng giống Arian và loại trừ dân tộc Do-thái cũng như các dân tộc yếu kém khác. Ngay từ năm 1935, trong một bài nói chuyện với một nhóm sinh viên, Đức Hồng y Von Haberm, Tổng Giám mục Munich, đă khẳng định rằng Đức quốc xă của Hitler là nơi tích tụ của tất cả mọi thứ lạc giáo trong quá khứ thành một lạc giáo duy nhất. Lạc giáo ấy chính là dùng tôn giáo để biện minh cho các ư đồ chính trị của ḿnh. Các cuộc chiến tranh ái quốc ngông cuồng và nhất là các cuộc chiến tranh thực dân là điển h́nh của thứ lạc giáo ấy. Niềm tin tôn giáo được biến thành tín điều trong cương lĩnh chính trị. Người ta nhân danh tôn giáo của ḿnh để triệt hạ những người không cùng tôn giáo với ḿnh.

Chính trị không thể không màng tới tôn giáo và đạo đức. Chính trị không có đạo đức là chính trị ma giáo, quỷ quyệt. Nhưng đồng hóa chính trị với tôn giáo và đạo đức, nghĩa là lấy tôn giáo và đạo đức để biện minh cho chính trị, th́ chính trị sẽ trở thành cuồng tín và phi đạo đức.

 

 

 

 

 

 

P

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC

 

 

 

Chỉ dẫn tín lư về một số vấn đề liên quan

đến sự tham gia của người Công giáo

trong đời sống chính trị

(Thánh Bộ Giáo Lư Đức Tin)

 

Thánh Bộ Giáo Lư Đức Tin sau khi nhận được ư kiến của Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân đă quyết định rằng thật là thích hợp để công bố văn bản “Những chỉ dẫn tín lư về một số vấn đề liên quan đến sự tham gia của người Công giáo trong đời sống chính trị”. Chỉ dẫn này được chuyển đến các Đức Giám mục Công giáo và cách đặc biệt đến những chính trị gia Công giáo và tất cả các tín hữu được mời gọi tham gia trong đời sống chính trị tại các xă hội dân chủ.

 

I. Một giáo huấn liên tục

 

1. Trong ḍng lịch sử 2000 năm qua, sự dấn thân của người Kitô hữu trong thế gian đă được thể hiện bằng nhiều h́nh thức khác nhau. Một trong những h́nh thức này là việc tham gia trong đời sống chính trị: Những Kitô hữu, như một tác giả của Giáo Hội tiên khởi đă khẳng định, "làm trọn vai tṛ của người công dân". [1] Trong số các vị thánh, Giáo Hội tôn kính nhiều vị nam nữ đă phụng sự Thiên Chúa qua việc quảng đại dấn thân trong lănh vực chính trị cũng như trong việc điều hành đất nước. Trong số những vị ấy phải kể đến Thánh Thomas More, vị đă được tuyên phong làm bổn mạng của các nhà cầm quyền và chính trị gia, vị đă lấy máu của ḿnh để bảo vệ "phẩm giá bất khả phủ nhận của lương tâm con người" [2] Bất chấp nhiều h́nh thức áp lực tâm lư phải chịu, Thánh Thomas More đă từ chối không chịu lùi bước, không từ bỏ "ḷng trung tín kiên vững với quyền bính và các định chế hợp pháp" soi sáng cho ngài; thánh nhân đă dùng cuộc sống và cái chết của ḿnh để giảng dạy rằng "con người không thể tách rời Thiên Chúa, và chính trị không thể tách biệt với luân lư"[3]

Thật là đáng khích lệ khi thấy trong các xă hội dân chủ ngày nay, trong một bầu khí của tự do thật sự, mọi người được tạo điều kiện tham gia điều hành guồng máy chính trị. [4] Trong những xă hội như vậy, người Kitô hữu cũng như không phải Kitô hữu được kêu mời tham gia vào đời sống chính trị như nhau. Thật vậy, tất cả mọi người có thể đóng góp, qua việc đầu phiếu trong các cuộc tuyển cử để chọn các nhà làm luật và những người điều hành đất nước, và trong các phương thế khác nữa, cho việc phát triển các giải pháp chính trị và các lựa chọn hợp pháp mà, theo ư kiến họ, sẽ đem lại lợi ích chung. [5] Đời sống dân chủ chẳng có ích ǵ nếu không có sự tham gia tích cực, có trách nhiệm và quảng đại của mọi người, "mặc dù trong sự dị biệt và đối lập về h́nh thức, mức độ, nghĩa vụ và trách nhiệm". [6]

Bằng việc chu toàn các nghĩa vụ dân sự của ḿnh, "theo lương tâm của một người Kitô hữu", [7] hợp với các giá trị Kitô Giáo, người tín hữu thi hành công việc xứng hợp của ḿnh là đem các giá trị Kitô Giáo vào trong các trật tự trần thế, trong khi tôn trọng bản chất và sự trung lập đúng đắn của trật tự này, [8] và hợp tác với các công dân khác theo khả năng và trách nhiệm chuyên biệt của họ.[9] Hệ quả của giáo huấn căn bản từ Công đồng Vaticanô II này là “người tín hữu không bao giờ được từ bỏ sự tham gia của họ trong ‘đời sống công cộng’, nghĩa là, trong các lănh vực khác nhau về kinh tế, xă hội, lập pháp, hành pháp và văn hóa, nhằm đem lại lợi ích chung cách cụ thể và hợp pháp".[10] Điều này bao gồm sự đề cao và bảo vệ các thiện ích như ḥa b́nh, tự do và b́nh đẳng, tôn trọng đời sống con người và môi trường sống, công lư và t́nh liên đới.

Bản chỉ dẫn này không cố ư nhắm đến việc tŕnh bày toàn bộ giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề này, một vấn đề đă được Sách Giáo lư Giáo Hội Công giáo tóm lược những điểm chính yếu, mà chỉ nhắm đến việc nhắc lại một số những nguyên tắc xứng hợp với lương tâm Kitô hữu, những nguyên tắc soi sáng cho việc tham gia của người Công Giáo trong những xă hội dân chủ.[11] Sự xuất hiện của những hồ nghi và những lập trường gây tranh căi trong thời gian gần đây, mà thường là do áp lực của các biến cố trên thế giới, khiến cần phải làm rơ một số yếu tố quan trọng của giáo huấn Giáo Hội trong lănh vực này.

 

II. Những điểm chính trong cuộc tranh luận hiện nay

về văn hóa và chính trị.

 

2. Xă hội dân sự ngày nay đang trải qua một tiến tŕnh văn hóa phức tạp vào cuối một thời kỳ đánh dấu bởi sự bất định khi đối diện với những cái mới. Những bước tiến đă được thực hiện trong thời đại của chúng ta là bằng chứng cho tiến bộ của nhân loại trong việc đạt đến những điều kiện sống phù hợp hơn với phẩm giá con người. Sự tiến triển không ngừng trong ư thức trách nhiệm với quốc gia là một dấu chỉ quan trọng, tiêu biểu cho một sự nhạy cảm lớn hơn đối với công ích. Cùng lúc đó, người ta cũng không thể nhắm mắt làm ngơ đi trước những nguy hiểm thực sự từ các khuynh hướng khác trong xă hội đang cố hô hào được hợp pháp hóa, cũng như không thể lờ đi những hệ quả trên các thế hệ tương lai.

“Ngày nay có một thứ khuynh hướng văn hóa tương đối, được thể hiện nơi việc h́nh thành ư niệm cũng như nơi việc bênh vực cho một chủ nghĩa đa nguyên luân lư, dẫn đường cho sự suy đồi và tách biệt giữa lư trí và những nguyên tắc luân lư tự nhiên. Hơn thế nữa, thường xuyên có những ư kiến được phát biểu công khai rằng chủ nghĩa đa nguyên luân lư ấy chính là điều kiện cho một nền dân chủ. [12] Một hệ quả là, nhiều công dân đ̣i hỏi sự trung lập hoàn toàn trong các lựa chọn luân lư, và các nhà làm luật chủ trương rằng họ tôn trọng tự do lựa chọn này bằng cách đưa vào luật bất kể các nguyên tắc đạo lư tự nhiên, và chịu khuất phục trước các khuynh hướng văn hóa và luân lư tạm bợ, [13] như thể mọi dự phóng có thể về cuộc đời đều có giá trị như nhau. Đồng thời, giá trị của ḷng khoan dung bị thách thức cách xảo quyệt khi một số lớn công dân, trong đó có người Công Giáo, bị buộc không được đặt những đóng góp cho xă hội và đời sống chính trị - thông qua các phương tiện hợp pháp dành cho mọi người trong một nền dân chủ - trên cơ sở các hiểu biết nhất định về con người và công ích. Lịch sử của thế kỷ XX chứng minh rằng các công dân này là đúng, họ là những người nhận ra được sự sai trái của chủ nghĩa tương đối, và cùng với nó là nhận định cho rằng không tồn tại luật luân lư bắt nguồn từ bản thiện con người, chi phối hiểu biết của ta về con người, công ích và quốc gia.

3. Dĩ nhiên, chủ nghĩa tương đối này không dính dáng ǵ đến quyền tự do hợp pháp của các công dân Công Giáo trong việc lựa chọn trong những ư kiến chính trị khác nhau xem ư kiến nào hợp với đức tin và luân lư tự nhiên, cũng như trong việc lựa chọn xem những ǵ là hay nhất, theo các tiêu chuẩn của ḿnh, phù hợp với các nhu cầu của công ích. Quyền tự do về lănh vực chính trị không được và không thể căn cứ vào ư nghĩ có tính cách tương đối cho rằng tất cả mọi quan niệm về sự thiện của con người đều có giá trị và đều chân thật như nhau, nhưng trái lại, phải trên sự kiện là chính trị phải tính đến các nhận thức cụ thể về thiện ích nhân bản và xă hội trong các bối cảnh cụ thể về lịch sử, địa lư, kinh tế, kỹ thuật và văn hóa. Từ đặc thù của công việc và sự đa dạng của t́nh huống mà nhiều chính sách và giải pháp có thể chấp nhận được về mặt luân lư nảy sinh. Không phải là việc của Giáo Hội để đưa ra những giải pháp chính trị nhất định nào, càng không thích hợp cho Giáo Hội khi đưa ra một giải pháp duy nhất chấp nhận được cho những vấn đề trần thế mà Thiên Chúa dành để cho sự tự do và sự phán đoán có trách nhiệm của mỗi người. Tuy nhiên, Giáo Hội có quyền và có bổn phận phải đưa ra những phán đoán luân lư theo yêu cầu của đức tin và luật luân lư. [14] Nếu người Kitô hữu phải "nh́n nhận tính cách hợp pháp của những quan điểm khác nhau về việc tổ chức các hoạt động trần thế", [15] th́ họ cũng được kêu gọi để loại trừ, như những ǵ gây tổn hại đến sinh hoạt dân chủ, ư tưởng đa nguyên phản ảnh chủ nghĩa luân lư tương đối. Nền dân chủ phải được đặt trên một nền tảng chân thực và vững chắc của những nguyên tắc đạo lư bất khả thương lượng, là những nguyên tắc bảo đảm cho đời sống xă hội.

Ở mức độ hành động chính trị cụ thể, thông thường có nhiều xu hướng chính trị theo đó người Công giáo có thể hành xử - đặc biệt thông qua các tổ chức lập pháp - các quyền và nghĩa vụ đóng góp cho đời sống công cộng. [16] Điều này phát sinh từ bản chất không thể tiên liệu của các lựa chọn nhất định liên quan đến trật tự xă hội, sự phong phú của các phương án nhằm thực thi hay bảo đảm cùng một giá trị căn bản, khả năng có nhiều cách thức diễn dịch những nguyên tắc cơ bản của lư thuyết chính trị, và sự phức tạp về mặt kỹ thuật của nhiều vấn nạn chính trị. Tuy nhiên, không nên lẫn lộn với một chủ nghĩa đa nguyên mơ hồ khi lựa chọn các nguyên tắc luân lư hay các giá trị thiết yếu. Tính đa nguyên hợp pháp trong các lựa chọn trần thế là cốt lơi của việc dấn thân của người Công Giáo vào chính trị và có quan hệ trực tiếp với giáo huấn về luân lư và xă hội Kitô giáo. Người Công giáo cần phải đánh giá sự tham gia vào đời sống chính trị của ḿnh trong ánh sáng của giáo huấn này để chắc chắn rằng sự tham gia ấy được ghi dấu bởi một trách nhiệm hợp lư cho thực tại trần thế.

Giáo Hội nhận thức rằng trong khi chế độ dân chủ là h́nh thức tốt nhất cho sự tham dự trực tiếp của công dân trong các lựa chọn chính trị, chế độ dân chủ chỉ có thể thành công khi nào nó dựa trên một nhận thức đúng đắn về nhân sinh.[17] Sự tham gia của người Công Giáo trong đời sống chính trị không thể nhân nhượng về nguyên tắc này, nếu không chứng tá của đức tin Kitô giáo với thế giới, cũng như sự hiệp nhất và sự nhất quán nội tại của người tín hữu không tồn tại. Những cấu trúc dân chủ trên đó các quốc gia đương đại được xây dựng trên sẽ trở nên hết sức mong manh nếu nền tảng của nó không qui hướng vào con người. Thật là đáng kính thay những ai làm cho việc dự phần dân chủ trở thành khả dĩ. Như Công đồng Vaticanô II đă dạy, sự bảo vệ “các quyền của con người, thực ra, là một điều kiện cần thiết cho các công dân, cá nhân và tập thể, được hoạt động tích cực trong đời sống công cộng và trong việc quản trị” [18].

4. Chuỗi phức tạp các vấn nạn ngày nay, bao gồm cả những vấn nạn chưa từng thấy trong quá khứ, phát sinh từ đây. Bước tiến khoa học đă mang lại những tiến bộ làm lung lạc lương tâm những người nam nữ, và đ̣i hỏi phải có những giải pháp tôn trọng những nguyên tắc đạo lư một cách nhất quán và có nền tảng. Đồng thời, những đề nghị lập pháp được đưa ra, mà không tính ǵ đến sự tồn tại và tương lai của nhân loại, liên quan đến sự h́nh thành văn hoá và các hành vi xă hội, đang tấn công vào chính sự bất khả xâm phạm của mạng sống con người. Người Công giáo trong t́nh cảnh khó khăn này có quyền và có bổn phận tái kêu gọi xă hội hăy nhận thức sâu xa hơn về sinh mạng con người và về trách nhiệm của mọi người trước vấn đề này. Đức Giáo hoàng, tiếp tục giáo huấn liên tục của Giáo Hội, đă lập đi lập lại nhiều lần rằng những ai trực tiếp tham gia vào các cơ cấu lập pháp có một “trách nhiệm nghiêm trọng và tỏ tường trong việc chống lại bất cứ luật lệ nào tấn công sự sống con người". Đối với những người này cũng như đối với hết mọi người Công giáo, không thể nào có chuyện ủng hộ hay bỏ phiếu thuận cho những thứ luật lệ ấy. [19] Như Đức Giáo hoàng đă dạy trong Tông thư Tin mừng sự sống (Evangelium Vitae) liên quan đến t́nh trạng trong đó không thể đảo ngược hay hủy bỏ hoàn toàn một luật cho phép phá thai đă có hiệu lực hay đang chờ bỏ phiếu, “một viên chức dân cử, được biết đến như là người có quan điểm cá nhân chống tuyệt đối luật phá thai đă có hiệu lực pháp lư, có thể ủng hộ cho những dự luật nhằm hạn chế tác hại bởi luật đó hay giảm thiểu những hệ quả xấu theo ư kiến và đạo lư chung” [20].

Trong bối cảnh này, cần lưu ư rằng một lương tâm Kitô giáo được h́nh thành vững vàng không cho phép ta được bỏ phiếu cho một chương tŕnh chính trị hay một khoản luật nào chống lại những nội dung nền tảng của đức tin và luân lư. Đức tin Kitô giáo là một thể hiệp nhất, và v́ thế thật vô lư khi tách biệt ra một số yếu tố nào đó để rồi gây phương hại cho toàn bộ tín lư Công giáo. Một sự dấn thân chính trị cho một khía cạnh cá biệt nào đó của học thuyết xă hội Giáo Hội không được kể là hoàn thành trách nhiệm cá nhân của ta với công ích. Người Công giáo cũng không thể nghĩ tới việc trút trách nhiệm cho người khác, trái lại, Tin Mừng của Chúa Kitô trao phó trách nhiệm này trong tay ta, để sự thật về con người và thế giới được công bố và được đưa ra ứng dụng.

Khi hoạt động chính trị đi ngược lại với các nguyên tắc luân lư bất khả châm chước, nhân nhượng hay thoái bộ, th́ việc dấn thân Công giáo càng phải hiển nhiên hơn và mang đầy trách nhiệm hơn. Trước những đ̣i hỏi đạo lư quan yếu và bất khả nhượng, người Kitô hữu cần nhận định rằng cái đang gặp nguy cơ hiện này là yếu tính của lề luật luân lư, là những ǵ liên quan đến sự thiện toàn vẹn của con người. Đây là trường hợp xẩy ra với những khoản luật liên quan đến vấn đề phá thai và an tử (xin đừng lầm lẫn với quyết định từ chối những chữa trị ngoại thường là những điều vẫn hợp luân lư). Những khoản luật này phải bênh vực quyền sống căn bản từ khi được thụ thai cho tới khi chết tự nhiên. Cũng thế, cần phải nhắc lại nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ các quyền của phôi thai. Tương tự, gia đ́nh cần phải được bảo vệ và đề cao, dựa trên chế độ một vợ một chồng, và cần phải bảo vệ tính cách duy nhất và vững bền của nó chống lại những luật lệ về ly dị: không một h́nh thức chung sống nào khác có thể được đặt ngang hàng với hôn nhân, hoặc được công nhận như hôn nhân về mặt luật pháp. Điều này cũng đúng cho vấn đề tự do giáo dục con cái, đó là một quyền bất khả nhượng đă được Bản Tuyên ngôn chung về nhân quyền công nhận. Tương tự như thế, người ta phải chú trọng tới việc xă hội bảo vệ các trẻ vị thành niên khỏi những h́nh thức nô lệ mới (như nghiện ngập và măi dâm chẳng hạn). Thêm vào đó, c̣n có quyền được tự do về tôn giáo và quyền phát triển một nền kinh tế phục vụ con người và công ích, tôn trọng công bằng xă hội, những nguyên tắc về t́nh liên đới và hỗ trợ, theo đó "quyền của các cá nhân, gia đ́nh và các tổ chức và sự thực thi trong thực tế các quyền này phải được công nhận"[21]. Sau hết cần phải đề cập đến vấn đề ḥa b́nh. Nhiều xu hướng chủ ḥa và các chủ nghĩa đôi khi có khuynh hướng tục hóa giá trị của ḥa b́nh, trong khi, trong một số trường hợp khác, lại có hiện tượng phán đoán luân lư giản đơn mà quên đi tính cách phức tạp của các vấn nạn liên quan. Ḥa b́nh bao giờ cũng là 'việc làm của công bằng và hiệu quả của bác ái'. [22] Nó đ̣i phải hoàn toàn và thật sự loại bỏ bạo lực và khủng bố, cũng như đ̣i thực hiện một cuộc dấn thân liên lỉ và khôn ngoan về phía tất cả các nhà lănh đạo chính trị”.

 

III. Những nguyên tắc của tín lư Công giáo về tính trung lập của trật tự trần thế và về chủ nghĩa đa nguyên

 

5. Trong khi một sự đa diện của các phương pháp luận phản ảnh những cảm nhận và văn hóa khác nhau có thể coi là hợp lệ trong khi tiếp cận với những vấn đề như vậy, không người Công giáo nào được nại đến nguyên tắc đa nguyên, hay vào quyền trung lập của người giáo dân tham gia vào đời sống chính trị, để ủng hộ những chính sách gây ảnh hưởng đến công ích, nhượng bộ hay làm suy yếu những đ̣i hỏi căn bản về đạo lư. Đây tự nó không phải là vấn đề của “những giá trị giáo điều”, bởi v́ những nguyên tắc luân lư này bắt nguồn tự chính bản chất con người và thuộc về luật tự nhiên. Chúng không đ̣i buộc những người bênh vực cho chúng phải có đức tin Kitô giáo, mặc dù giáo huấn của Giáo Hội khẳng định và bênh vực cho chúng luôn luôn và ở mọi nơi như một phần của sứ vụ của Giáo Hội đối với sự thật về con người và về công ích của xă hội dân sự. Hơn thế nữa, không thể phủ nhận là các chính trị gia cần quy chiếu đến các nguyên tắc về giá trị tuyệt đối chính bởi v́ chúng phục vụ phẩm giá con người và sự tiến bộ thực sự của nhân loại.

6. Cần phải làm rơ những biện minh thường được đưa ra viện đến “quyền trung lập chính đáng của người giáo dân Công giáo” khi tham gia vào những nhu cầu chính trị. Việc đề cao công ích của xă hội theo lương tâm không liên quan ǵ đến “chủ nghĩa tín điều” hay sự bất khoan dung tôn giáo. Đối với học thuyết luân lư Công giáo, quyền trung lập chính đáng của lănh vực chính trị hay dân sự đối với tôn giáo và Giáo Hội - chứ không phải đối với luân lư - là một giá trị đă được h́nh thành và được công nhận bởi Giáo Hội Công giáo, và thuộc về di sản của nền văn minh đương đại. [23]. Đức Gioan Phaolô II đă cảnh cáo nhiều lần về nguy cơ gây ra từ sự lẫn lộn giữa các lănh vực tôn giáo và chính trị. “Nhiều t́nh huống hết sức nhạy cảm bộc phát khi một chuẩn mực tôn giáo đặc thù trở thành hay có khuynh hướng trở thành luật lệ của một quốc gia mà không tính đến sự khác biệt giữa các phạm trù phù hợp cho tôn giáo và cho chính trị xă hội. Trong thực tế, sự đánh đồng giữa luật tôn giáo và luật dân sự có thể bóp nghẹt tự do tôn giáo, và ngay cả c̣n đi xa hơn đến mức hạn chế hay phủ nhận những nhân quyền bất khả nhượng”. [24] Tất cả tín hữu đều biết rằng các hoạt động tôn giáo chuyên biệt (chẳng hạn như tuyên xưng đức tin, thờ phượng, ban phát các phép bí tích, các học thuyết thần học, hoán chuyển giữa các vị lănh đạo tinh thần và các thành viên tôn giáo) không thuộc trách nhiệm của nhà nước. Nhà nước không được quyền can thiệp, đ̣i buộc hay cấm đoán cách này cách khác những hoạt động này, trừ khi có vấn đề về trật tự công cộng. Sự nh́n nhận các quyền dân sự và chính trị, cũng như sự phân bố các dịch vụ công cộng không được tuỳ thuộc vào những xác tín hay các hoạt động tôn giáo của công dân.

Quyền hạn và nghĩa vụ của những người Công giáo, cũng như của tất cả mọi người công dân trong việc thành tâm t́m kiếm chân lư, và trong việc dùng các phương thế hợp pháp để cổ vơ và bênh vực các sự thật về luân lư, liên quan đến xă hội, công lư, tự do, tôn trọng sự sống con người, cùng với các quyền khác của con người, là một cái ǵ đó hoàn toàn khác hẳn. Sự kiện là một số trong những sự thật này có thể cũng được Giáo Hội truyền dạy không làm giảm bớt tính cách hợp pháp chính trị hay "quyền trung lập" chính đáng của những công dân tin tưởng nơi các sự thật này, bất kể là đức tin Công giáo đă đóng vai tṛ ǵ tra xét hay khẳng định trong việc công nhận những sự thật như thế. Tính “trung lập” này liên hệ trước hết đến thái độ của người tôn trọng những sự thật từ kiến thức tự nhiên về đời sống con người trong xă hội, ngay cả khi những sự thật này cũng được dạy bởi một tôn giáo chuyên biệt nào, bởi v́ sự thật là duy nhất. Thật là sai lầm khi lẫn lộn sự trung lập chính đáng người Công giáo hành xử trong đời sống chính trị với chủ trương theo đuổi một nguyên tắc đ̣i tách biệt khỏi giáo huấn về luân lư và xă hội của Giáo Hội.

Qua những can thiệp trong lănh vực này, Huấn Quyền Hội Thánh không muốn hành xử quyền lực chính trị hay loại trừ tự do ư kiến của những người Công giáo. Thay vào đó, Huấn Quyền có ư muốn - theo như chức năng xứng hợp của ḿnh - là hướng dẫn và soi sáng lương tâm của các tín hữu, đặc biệt là những ai tham gia vào đời sống chính trị sao cho hành động của họ luôn phục vụ sự thăng tiến thiết yếu của con người và công ích. Học thuyết xă hội của Giáo Hội không phải là một sự can thiệp của Giáo Hội vào trong chính quyền các nước. Vấn đề là người Công giáo phải trở nên nhất quán về mặt luân lư, theo đúng một lương tâm duy nhất và bất khả phân. “Không thể có hai cuộc sống tồn tại song song: một cuộc sống gọi là ‘cuộc sống tinh thần’ với những giá trị và đ̣i buộc; và một cuộc sống gọi là ‘cuộc sống thế tục’, nghĩa là, cuộc sống trong gia đ́nh, ở nơi làm việc, trong các bổn phận xă hội, trong các bổn phận thuộc đời sống công cộng và trong văn hóa. Nhánh nho, ăn vào cây nho là Đức Kitô, sinh hoa kết quả trong mọi lănh vực sống và hoạt động. Thật ra, mỗi lănh vực của đời sống người tín hữu, dù khác nhau thế nào, đều nằm trong chương tŕnh của Thiên Chúa, Đấng mong muốn rằng chính những lănh vực này là những ‘nơi chốn thích hợp’ cho t́nh yêu của Chúa Kitô được tỏ lộ và nhận ra v́ vinh quang của Chúa Cha và sự phục vụ tha nhân. Mọi hành động, mọi t́nh huống, mọi bổn phận - cũng như, chẳng hạn, kỹ năng và t́nh liên đới nơi sở làm, t́nh yêu và sự tận tụy nơi gia đ́nh và sự giáo dục con cái, sự phục vụ xă hội và đời sống công cộng và sự đề cao chân lư trong lănh vực văn hóa - là những dịp được gởi đến từ sự quan pḥng của Thiên Chúa như “một dịp thực hành liên tục về đức tin, đức cậy và đức mến” (Apostolicam actuositatem, 4)».[25] Sống và hành động theo lương tâm con người trong những vấn đề chính trị không phải là việc bó buộc phải chấp nhận những chủ trương xa lạ với chính trị hay là một thứ chủ nghĩa tín điều, mà là đường lối người Kitô hũu thực sự đóng góp để, qua sinh hoạt chính trị, xă hội trở nên công chính hơn và gắn bó hơn với phẩm giá của con người.

Trong các xă hội dân chủ, mọi đề nghị đều được tự do thảo luận và xem xét. Những ai, trên căn bản tôn trọng lương tâm cá nhân, mà thấy rằng nghĩa vụ luân lư của Kitô hữu phải hành động hợp với lương tâm của ḿnh như một cái ǵ đó làm cho họ không c̣n thích hợp với sinh hoạt chính trị nữa, hay chối bỏ tính cách hợp pháp của việc tham gia chính trị theo như xác tín của họ về công ích, đều mắc vào chủ nghĩa thế tục không khoan dung. Quan điểm như thế sẽ phủ nhận không chỉ mọi dính líu của người Kitô hữu trong đời sống công cộng hay chính trị mà ngay cả c̣n chối bỏ chính các luân lư tự nhiên. Nếu như thế th́ con đường sẽ rộng mở thênh thang cho sự chao đảo luân lư, mà không ǵ hơn là chủ nghĩa đa nguyên pháp lư. Sự hiếp đáp kẻ yếu bởi kẻ mạnh sẽ là hệ quả đương nhiên. Hơn nữa, sự gạt bỏ Kitô giáo ra ngoài lề sẽ không hứa hẹn tốt cho tương lai xă hội hay cho sự đồng tâm giữa các dân tộc; nó sẽ đe dọa chính những nền tảng tinh thần và văn hóa của nền văn minh. [26].

 

IV. Những cứu xét liên quan đến một số khía cạnh đặc biệt

 

7. Trong những năm gần đây, có những trường hợp trong nội bộ một số tổ chức được thành lập trên nguyên tắc Công giáo lại có những người tỏ ra ủng hộ những lực lượng chính trị hay những phong trào có chủ trương ngược lại với giáo huấn về luân lư và xă hội của Giáo Hội liên quan đến những vấn đề đạo lư nền tảng. Những hành động này, trái ngược với các nguyên tắc căn bản của lương tâm Công giáo, không hợp với tư cách thành viên của những tổ chức hay hiệp hội cho ḿnh là Công giáo. Tương tự như thế, một số tạp chí định kỳ trong vài quốc gia đă bày tỏ những quan điểm về chọn lựa chính trị mơ hồ hay sai trái, bằng cách diễn dịch sai ư tưởng về sự trung lập chính trị mà người Công giáo được hưởng và không lư ǵ đến các nguyên tắc đă được đề cập trên đây.

Đức tin nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), đ̣i hỏi người Kitô hữu đưa ra một cố gắng mạnh mẽ hơn nữa trong việc xây dựng một nền văn hóa linh hứng bởi Tin Mừng, tái lập những giá trị và những nội dung của Truyền Thống Công giáo. Việc tŕnh bày hoa quả của gia sản tinh thần, trí tuệ và luân lư Công giáo qua những thuật ngữ có thể hiểu được với nền văn hóa hiện đại là một nhiệm vụ cấp bách ngày nay, nhằm cũng để tránh một thứ văn hóa Công giáo bị lưu đầy. Hơn thế nữa, những thành đạt văn hóa và kinh nghiệm trưởng thành của người Công giáo trong đời sống chính trị trong nhiều nước khác nhau, đặc biệt sau Thế Chiến Thứ Hai, không cho phép bất cứ “mặc cảm tự ti” khi so sánh với các chương tŕnh chính trị mà lịch sử gần đây đă cho thấy là yếu kém hay chỉ hoàn toàn gây hại. Thật là không đầy đủ và quá giản lược khi nghĩ rằng sự dấn thân của người Công giáo trong xă hội có thể hạn hẹp trong phạm vi một sự chuyển hóa cấu trúc đơn giản, v́ nếu ở mức cơ bản mà không có nền văn hóa nào có khả năng tiếp nhận, biện minh và đưa vào thực tiễn những chủ trương xuất phát từ đức tin và luân lư, những thay đổi sẽ luôn dựa trên một nền tảng mong manh.

Đức tin Kitô giáo chưa bao giờ được giả định là sẽ đặt một khuôn khổ cứng nhắc trên các vấn đề xă hội và chính trị, với ư thức rằng chiều kích lịch sử đ̣i hỏi con người sống trong những hoàn cảnh không hoàn thiện, và lung lay trước những đổi thay. V́ thế, người Kitô hữu phải phủ nhận những quan điểm chính trị và những hành động xuất phát từ chủ trương coi thực tại trần thế là hoàn thiện, biến truyền thống đức tin Kinh Thánh thành một thứ viễn kiến tiên tri không có Thiên Chúa, lợi dụng tôn giáo bằng cách dẫn dắt lương tâm về một niềm hy vọng hoàn toàn trần thế và tiêu diệt hay diễn dịch lại cố gắng hướng về cuộc sống bất tử của Kitô giáo.

Đồng thời, Giáo Hội dạy rằng tự do đích thực không tồn tại nếu không có chân lư. “Chân lư và tự do hoặc là cùng đi với nhau tay trong tay hoặc cùng tan ră trong khốn cùng”. [27] Trong một xă hội trong đó sự thật không được đề cập đến cũng như không được t́m kiếm, mọi h́nh thái của việc thực hành tự do đích thực sẽ bị làm yếu đi, dọn đường cho những biến thái về tự do và chủ nghĩa cá nhân, cũng như xói ṃn sự bảo vệ lợi ích của con người và toàn xă hội.

8. Về vấn đề này, thật là hữu ích khi nhắc lại rằng sự thật ngày nay thường không được cảm nhận hay h́nh thành cách đúng đắn: quyền tự do tư tưởng và, một cách đặc biệt, quyền tự do tôn giáo được Công đồng chung Vaticanô II truyền dạy trong Tuyên ngôn ‘Dignitatis humanae’ (Nhân phẩm con người), phải được căn cứ vào phẩm giá thực sự tồn tại (ontological) của con người, chứ không phải vào tính chất tương đương không có thật nơi các tôn giáo hay nơi các hệ thống văn hóa do con người tạo nên. [28] Suy tư về vấn đề này, Đức Thánh Cha Phaolô VI dạy rằng “Công đồng không bao giờ đặt quyền tự do tôn giáo trên căn bản là mọi tôn giáo và giáo huấn, kể cả những giáo huấn sai trái, có giá trị tương đương cách nào đó; trái lại, nó được đặt trên phẩm giá của con người, là điều đ̣i hỏi rằng người ấy không bị những giới hạn ngoại tại có khuynh hướng khống chế lương tâm trong hành tŕnh t́m kiếm tôn giáo đích thực hay không cho gắn bó với tôn giáo ấy” [29] Giáo huấn về quyền tự do lương tâm và quyền tự do tôn giáo, bởi thế, không trái nghịch với việc tín lư Công Giáo lên án chủ nghĩa thờ ơ và chủ trương tương đối hóa tôn giáo; ngược lại, giáo huấn này hoàn toàn phù hợp với tín lư ấy.

 

V. Kết luận

 

9. Những nguyên tắc được nhắc đến trong Bản chỉ dẫn này là để làm sáng tỏ một trong những khía cạnh quan trọng nhất trong mối hiệp nhất của đời sống Kitô hữu, đó là tính nhất quán giữa đức tin và đời sống, giữa Tin Mừng và văn hóa, như Công đồng chung Vaticanô II đă nhắc nhở. Công đồng đă cổ vũ Kitô hữu “thực thi các bổn phận cách trung thành trong tinh thần Tin Mừng. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng v́ chúng ta không có quê hương lâu dài dưới thế, nhưng t́m kiếm quê hương sắp đến, nên chúng ta có quyền chối bỏ bổn phận dưới thế của ḿnh; điều này quên rằng chính bởi đức tin mà chúng ta càng buộc phải thực thi các bổn phận này theo ơn gọi của mỗi người. Cầu mong các Kitô hữu tự hào về cơ hội được thi hành các hoạt động trần thế trong cách thế phối hợp các cố gắng nhân bản, gia đ́nh, chuyên môn, khoa học và kỹ thuật với các giá trị tôn giáo dưới chiều hướng tối cao là quy hướng mọi sự về vinh quang Thiên Chúa” [31].

 

-------------------------

 

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong buổi triều yết hôm 21-11-2002 đă chuẩn y bản Chỉ dẫn này, trước đó đă được tán đồng trong Phiên Họp Khoáng Đại của Thánh Bộ, và truyền công bố.

 

Rôma, từ văn pḥng Thánh Bộ Giáo Lư Đức Tin,

ngày 24-11-2002, lễ Chúa Kitô Vua.

+ Hồng Y Joseph RATZINGER, Bộ Trưởng

+ TGM Tarcisio BERTONE, S.D.B., Thư kư

----------------------------------

 

Chú thích


[1] Letter to Diognetus, 5,5; Xem. Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, No. 2240.

[2] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư Motu Proprio Proclaiming Saint Thomas More Patron of Statesmen and Politicians, 1: AAS 93 (2001), 76.

[3] Ibid., 4.

[4] Xem. Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 31; Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, No. 1915.

[5] Xem. Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 75.

[6] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Apostolic Exhortation, Christifideles laici, 42: AAS 81 (1989), 472. The present doctrinal Note refers to the involvement in political life of lay members of the faithful. The Bishops of the Church have the right and the duty to set out the moral principles relating to the social order; «Nevertheless active participation in political parties is reserved to the lay faithful» (ibid., 60). Xem. Bộ Giáo Sĩ, Directory for the Ministry and Life of Priests (March 31, 1994), 33.

[7] Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 76.

[8] Xem. Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 36.

[9] Xem. Công Đồng Vatican II, Decree Apostolicam actuositatem, 7; Dogmatic Constitution Lumen gentium, 36; Pastoral Constitution Gaudium et spes, 31 and 43.

[10] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Apostolic Exhortation Christifideles laici, 42.

[11] Trong hai thế kỷ qua, Huấn Quyền Giáo Hoàng đă đề cập đến những vấn đề căn bản liên quan đến trật tự xă hội và chính trị. Xem. Leo XIII, Encyclical Letter Diuturnum illud: ASS 14 (1881-1882), 4 ff; Encyclical Letter Immortale Dei: ASS 18 (1885-1886), 162ff; Encyclical Letter Libertas præstantissimum: ASS 20 (1887-1888), 593ff; Encyclical Letter Rerum novarum: ASS 23 (1890-1891), 643ff; Benedict XV, Encyclical Letter Pacem Dei munus pulcherrimum: AAS 12 (1920), 209ff; Pius XI, Encyclical Letter Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), 190ff; Encyclical Letter Mit brennender Sorge: AAS 29 (1937), 145-167; Encyclical Letter Divini Redemptoris: AAS 29 (1937), 78ff; Pius XII, Encyclical Letter Summi Pontificatus: AAS 31 (1939), 423ff; Radiomessaggi natalizi 1941-1944; John XXIII, Encyclical Letter Mater et magistra: AAS 53 (1961), 401-464; Encyclical Letter Pacem in terris: AAS 55 (1963), 257-304; Paul VI, Encyclical Letter Populorum progressio: AAS 59 (1967), 257-299; Tông Thư Octogesima adveniens: AAS 63 (1971), 401-441.

[12] Xem. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Encyclical Letter Centesimus annus, 46: AAS 83 (1991); Encyclical Letter Veritatis splendor, 101: AAS 85 (1993), 1212-1213; Discourse to the Italian Parliament, 5: L’Osservatore Romano (November 15, 2002).

[13] Xem. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Encyclical Letter Evangelium vitae, 22: AAS 87 (1995), 425-426.

[14] Xem. Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 76.

[15] Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 75.

[16] Xem. Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 43 and 75.

[17] Xem. Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 25.

[18] Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 73.

[19] Xem. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Encyclical Letter Evangelium vitae, 73.

[20] Ibid.

[21] Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 75.

[22] Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo,No. 2304.

[23] Xem. Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 76.

[24] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ngày Ḥa B́nh Thế Giới 1991: «Muốn có hoà b́nh, hăy tôn trọng lương tâm mỗi người», 4: AAS 83 (1991), 414-415.

[25] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Apostolic Exhortation Christifideles laici, 59.

[26] Xem. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Address to the Diplomatic Corps accredited to the Holy See: L’Osservatore Romano (January 11, 2002).

[27] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Encyclical Letter Fides et ratio, 90: AAS 91 (1999), 75.

[28] Xem. Công Đồng Vatican II, Declaration Dignitatis humanae, 1: «This Sacred Council begins by professing that God himself has made known to the human race how men by serving him can be saved and reach the state of the blessed. We believe that this one true religion subsists in the Catholic and Apostolic Church». This does not lessen the sincere respect that the Church has for the various religious traditions, recognizing in them «elements of truth and goodness». Xem, Công Đồng Vatican II, Dogmatic Constitution Lumen gentium, 16; Decree Ad gentes, 11; Declaration Nostra aetate, 2; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Encyclical Letter Redemptoris missio, 55: AAS 83 (1991), 302-304; Congregation for the Doctrine of the Faith, Declaration Dominus Iesus, 2, 8, 21: AAS 92 (2000), 742-765.

[29] Paul VI, Address to the Sacred College and to the Roman Prelature: in Insegnamenti di Paolo VI, 14 (1976), 1088-1089.

[30] Xem. Pius IX, Encyclical Letter Quanta cura: ASS 3 (1867), 162; Leo XIII, Encyclical Letter Immortale Dei: ASS 18 (1885), 170-171; Pius XI, Encyclical Letter Quas primas: AAS 17 (1925), 604-605; Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, No. 2108; Congregation for the Doctrine of the Faith, Declaration Dominus Iesus, 22.

[31] Công Đồng Vatican II, Pastoral Constitution Gaudium et spes, 43; see also Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Apostolic Exhortation Christifideles laici, 59.

 

 

 

------------------------------------------------------


Các chú thích trong tài liệu

[1] Đào Duy Anh, Từ điển Hán-Việt, NXB Khoa học xă hội , tái bản tháng 2-2001, tr.174.

[2] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng, 1997, tr. 158.

[3] x. Is 24,23; 11, 1-9; 22, 1-5; Zac 14,9…

[4] x. Mt 4, 8-10

[5] Mt 16,20.

[6] Mt 16,23.

[7] x. Is 24,23; 11, 1-9; 22, 1-5; Zac 14,9…

[8] Ga 18,36.

[9] x. Lc 13,32.

[10] Mt 20,26.

[11] Mc 9,35.

[12] x. Ga 19,10-11.

[13] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Vui mừng và hy vọng (Gaudium et Spes), số 76.

[14] Pl 3,17-20

[15] 1Cr 10,31.

[16] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes), số 75.

[17] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes), số 76.

[18] x. CĐ Vat. II, Hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes), số 36.

[19] x. Công đồng Vatcanô II, Decree Apostolicam actuositatem, 7; Hiến chế Tín lư về Giáo Hội (Lumen gentium), số 36; Hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes), số 76.

[20] ĐGH Gioan Phaolô II, Apostolic Exhortation Christifideles laici, 42.

[21] x. CĐ Vat. II, Hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes), số 25.

[22] Thánh Bộ Giáo lư Đức tin, Những chỉ dẫn tín lư về một số vấn đề liên quan đến sự tham gia của người Công giáo trong đời sống chính trị, ngày 24-11-2002, các số 1,3,6.

[23] Bộ Giáo luật, Điều 285, §3.

[24] Bộ Giáo luật, Điều 287, §2.

[25] Bộ Giáo luật, Điều 287, §1.