Suy niệm – Tâm tình thiêng liêng
01.
Chiêm niệm (Đỗ Minh Niên) 05.
Tiếng Ngài gọi (1) (Trường Đỗ) 06.
Tiếng Ngài gọi (2) (Sr. Trần Thị Oanh) 07.
Chuyện đi tu (Giọt Sương Nhỏ) |
Tập Viện 96 - Đỗ Minh Niên
Đêm tĩnh mịch. Cây cỏ và gió mây đã chìm sâu
trong giấc ngủ. Tiếng côn trùng dường như cũng dần tan giữa màn đêm
cô tịch. Tất cả như bị mất hút trong bóng tối của huyền bí. Chỉ còn
lại vài vì sao lấp lóe trên bầu trời đang vật vã như muốn níu giữ
vài tia sáng mỏng manh giữa màn đêm sâu thẳm. Giữa cảnh vắng lạnh
đến ghê sợ làm tôi liên tưởng đến cuộc sống gần như vô nghĩa này.
Những sinh hoạt náo nhiệt trong ngày cũng không còn một chút tác
động gì ngoại trừ sự hư vô giữa màn đêm cô tịch.
Ngồi chứng kiến và tâm niệm cảnh hư vô này,
trong lòng tôi bỗng gợi lên một nỗi sợ hãi lạ thường. Tôi sợ cho chính
sự hư vô của cuộc sống, và sợ cho sự vô nghĩa của chính bản thân
tôi. Bởi chưng, những hoài bão, mong ước và lý tưởng của tôi trong
cuộc sống rồi chăng cũng trở nên vô nghĩa khi cuộc đời tôi dần
trôi qua? Và rồi đây những gì tôi đang vất vả xây dựng, hay nỗ lực
đoạt lấy, dù là tiếng tăm, danh vọng, hay vật chất phú quí, đều theo
tôi trôi vào dĩ vãng. Như những anh hùng trong quá khứ, dẫu một thời
hùng mạnh, lẫy lừng, giờ còn lại chăng chỉ một vài dòng chữ ghi
nhận trong bộ sách lịch sử. Và ngay chính bộ sách đó rồi cũng bị mối
mục theo thời gian! Hay như ngay cả những kẻ tiểu nhân bỉ ổi, bị người
đời lên án nguyền rủa, cuối cùng cũng chỉ là ảo ảnh và dần lãng
quên với quá khứ mà thôi!
Còn đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Hãy nhìn xem
những cụ già đang rù rì bước dần đến cửa mộ. Hãy nhìn xem những
bệnh nhân đang rên rỉ trong nỗi chán chường của thất vọng. Hãy nhìn
xem những nhà tỷ phú đang bệ nệ bên thân xác nặng nề trong rối
loạn của tâm linh. Hãy nhìn xem những bậc nhà giáo thông thái đang
đăm chiêu trong mối băn khoăn, khắc khoải với mớ kiến thức của
mình. Hãy nhìn xem những kẻ chính trị khôn lanh cũng đang oằn oại trong
ảnh hưởng của thời cuộc. Hãy nhìn xem những kẻ phiêu bạt bụi đời,
hay những ả gái lầu xanh sống bên lề xã hội đang vật vờ với kiếp
rong rêu của cuộc sống. Hãy nhìn xem những nhà tu sĩ đang thống khổ
gào thét, cầu khẩn với thượng đế trong sự hỗn loạn của thế giới
tội lỗi. Hãy nhìn xem mọi người đang lê lết sống dần theo ngày
tháng. Hãy nhìn xem và hãy nhìn xem…!
Cuộc sống rồi sẽ đi về đâu, và nỗ lực của loài
người sẽ đạt được những gì cho chính họ? Hay tất cả rồi cũng sẽ tan
biến và trở nên vô nghĩa trong bóng tối của hư vô? Trong thinh lặng,
tôi bàng hoàng trước những tiếng động vô âm của những hình hài vô
thể. Tôi xôn xao lo sợ, tuôn chạy trốn khỏi sự bao phủ của hư vô.
Nhưng càng chạy trốn, bóng tối của hư vô càng bám chặt lấy tôi.
Tôi lại càng trở nên sợ hãi và vật vã trước sự bất lực của mình.
Thân xác tôi trở nên bủn rủn. Tâm linh tôi rã rời ngã gục trong
lặng câm. Bầu khí càng trở nên lạnh lùng, cô tịch. Mệt mỏi, tôi
buông xuôi mặc cho sự yên lặng chiếm ngự hồn tôi.
Đang cố tìm một giải đáp cho sự hư vô này, bỗng
dưng từ tận tĩnh mịch của đáy lòng, tôi nghe như có tiếng ai thì thầm,
mời gọi: “Hãy về, Hãy về mà xem!” Tôi giật mình vùng dậy; mắt lau
láu nhìn xuyên qua màn đêm, tai chăm chú lắng nghe từng tiếng động,
nhưng chung quanh chẳng thấy ai, và tôi cũng không nghe tiếng động nào
ngoại trừ tiếng đập thình thịch của con tim. Tôi tiếp tục theo dõi và
lắng nghe hồi lâu, nhưng tất cả vẫn vắng lặng trong màn đêm. Tự
trấn tĩnh, tôi từ từ thu mình trở về với sự tĩnh mịch của màn đêm.
Sự yên lặng của hư vô từ từ bao phủ hồn tôi.
Tất cả giờ đây trở nên yên lặng, thật yên
lặng. Cả những boăn khoăn của cuộc sống cũng dần im tiếng. Những lo
âu cho tương lai cũng từ từ khuất dạng, nhường chỗ lại cho sự yên
lặng trong tâm hồn tôi. Trong thinh lặng của tâm hồn, tôi chỉ còn
nghe từng hơi thở nhịp nhàng và những dòng mạch đều hòa lưu thông
trong từng phần cơ thể. Trong yên lặng của tâm hồn, tôi hình dung
được sự hiện diện huyền bí của linh hồn mình với Thiên Chúa. Trong
yên lặng của tâm hồn, tôi cảm nhận được sự mầu nhiệm và thiêng
liêng của trời đất. Trong yên lặng của tâm hồn, tất cả những gì
tôi hằng mong muốn đều trở nên hư vô, và trong hư vô đó, tôi tìm
gặp được sự hiện hữu liêng thiêng của Ngài.
Hồng Ân
Trong khóa tĩnh tâm đầu năm, cha giám tập đã kể
câu chuyện như sau: Có một anh tập sinh trẻ, đến thưa với cha linh
hướng của mình: “Thưa cha con muốn gặp Chúa.”
Cha linh hướng chỉ đáp trả bằng nụ cười thinh
lặng. Ngày hôm sau người thanh niên cũng đến bày tỏ cùng một ước
muốn. Cha linh hướng cũng luôn giữ thái độ thinh lặng.
Một ngày đẹp trời nọ, cha linh hướng đưa người
tập sinh vào một khu rừng sâu, bên bờ suối, cha linh hướng bất thần
túm lấy người tập sinh và dìm xuống nước một hồi lâu. Anh cố gắng
vùng vẫy để trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ cha linh hướng mới hỏi
anh: “Khi bị dìm xuống nước con cảm thấy cần điều gì nhất?” Không một
chút suy nghĩ, người tập sinh đáp: “Thưa cha, con cảm thấy cần có khí
để thở.”
Cha linh hướng cười và nói: “Con có cảm thấy ước
ao được gặp gỡ Thiên Chúa như vậy không? Nếu con khao khát như thế,
con sẽ gặp được Ngài ngay tức khắc. Nếu con không hề có ước muốn
ấy, thì dù con có vận dụng hết tài trí và cố gắng, con cũng không
bao giờ gặp được Ngài.”
Cha giám tập kết thúc câu truyện với lời nói
đầy lòng tin: “Các con cũng giống như anh tập sinh trẻ ấy. Trong năm
nay, nếu các con thật sự khao khát và ao ước được gặp Thiên Chúa,
cha tin rằng các con sẽ gặp được Ngài. Nếu các con không hề có ao
ước ấy, cha cam đoan rằng các con không bao giờ gặp được Chúa.” Sau
khi nghe xong câu truyện và lời nói của cha giám tập, tôi cảm thấy
ngạc nhiên, hoang mang và tự hỏi: “Bộ tôi sẽ gặp được Thiên Chúa
sao?”
Thú thật trong cuộc sống của tôi và ngay cả
những ngày tháng học ở Đại Chủng Viện Ngôi Lời, có những lúc cô
đơn, phiền muộn, thất vọng, và chán nản, tôi đã mất niềm tin về sự
hiện diện của Thiên Chúa. Đôi lúc tôi có ý nghĩ vẩn vơ và dại khờ
như: “Nếu không có Thiên Chúa, thì chắc tôi mất cả đời này và lẫn
đời sau.” Hơn nữa bao nhiêu phú quý, danh vọng, tài sắc và thị hiếu
đã làm mất sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống của tôi. Thiên
Chúa như ngọn núi hùng vĩ đôi lúc đã bị đám mây đen che phủ. Thật
vậy, bao nhiêu tội lỗi đã cản trở tôi đi tìm kiếm Ngài.
Sau gần ba tháng sống trong nhà tập với lòng khao
khát gặp được Chúa, tôi đã gặp Ngài. Tôi gặp Ngài trong những lúc
cầu nguyện với các anh em tập sinh khác. Tôi gặp Ngài qua các cha và
thầy già yếu và bệnh tật. Tôi cũng gặp Ngài trong mọi người đang
sống chung quanh tôi. Đến bây giờ tôi mới nhận thấy Thiên Chúa là
người tình chung thủy luôn chờ đợi tôi. Bao lâu tôi còn hy vọng, bao
lâu tôi còn phấn đấu, bao lâu tôi còn cố gắng tìm thì bấy lâu
Thiên Chúa vẫn còn chờ đợi tôi.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tin tưởng vào sự hiện
diện của Ngài. Xin cho con nhận biết Chúa đang sống trong con và con
đang ở trong Chúa. Xin cho con biết chúc tụng và phó thác trong những
giây phút hạnh hạnh phúc và đau khổ của đời con. Và xin cho ngọn
nến khát khao Chúa luôn thắp sáng trong tâm hồn con.
Trường Duy Đỗ
Vào một ngày mùa hè nắng ấm Cali, biển thật
đẹp. Tôi thả hồn bồng bềnh trên sóng biển, mơ màng nhìn về phía xa khơi.
Mọi người xung quanh đều vui vẻ, thoải mái nói cười. Có một niềm
hân hoan, hạnh phúc khó tả đang dâng trào nơi tôi trong những ngày
nghỉ mát tuyệt vời này.
Phơi nắng chán, tôi lên bờ rồi tha thẩn bên mấy
quầy hàng lưu niệm. Một đứa bé chạy tới, tay chìa những cây bút chì
và lí nhí:
- Sir, would
you like to buy a pencil, please?
Thằng bé nhỏ người, mắt sáng lóe lên vẻ thông
minh. Tôi khe khẽ lắc đầu. Thằng bé cố nài:
- Sir, Take
one, please. It is just $1.00.
Thấy nó dây dưa tôi trợn trừng nhìn nó. Tôi thấy
ánh mắt sáng của đứa bé cụp xuống. Thằng bé lui thủi bước…
Tôi lại tiếp tục hững hờ rảo bước. Sang tới
quầy kế tiếp, cô bán hàng đon đả mời chào:
- May I help
you?
Tôi đảo mắt một lượt và chợt dừng lại ở góc
gian hàng. Cô gái nhanh nhẩu:
- That’s a
plastic-kite. It’s very nice, isn’t it? Just $10.00.
Không thèm nghĩ ngợi, tôi mở bóp rồi nhận lấy con
diều cùng nụ cười cầu tài của cô gái một cách thích thú.
Trở ra biển, con diều sặc sỡ gặp gió vút lên,
lượn lờ. Nằm dài trên biển cát, tôi khoan khoái ngắm cánh diều bay
giữa khoảng trời trong xanh. Gió càng mạnh, dây đã thả hết cỡ, con
diều bây giờ chỉ là một mảnh nho nhỏ, lượn lờ.
Ngày Mãn Tang Linh Mục Trần Minh Thắng,
SVD
Trung Mai
Thấm thoát mà đã ba năm rồi, ngày mà chúng em
hết sức bàng hoàng khi nghe tin Anh Thắng qua đời trong một tai nạn xe
hơi (17 /12 /1993). Hôm mồng Bốn tháng 12 vừa qua, chúng em tổ chức Lễ
Mãn Tang cho Anh tại Nguyện Đường Ngôi Lời. Nhân dịp này, chúng em có
dịp hồi tâm nhớ lại những kỷ niệm vui buồn khi Anh còn bên cạnh
chúng em.
Trong Thánh Lễ Mãn Tang, một anh có chia sẻ một
vài kỉ niệm về Anh. Bài chia sẻ có nhắc đến một đặc điểm của Anh
như sau: “Chắc các bạn có biết câu,
con mắt là cửa sổ của tâm hồn, thế nhưng khi Ngài cười, thì khó ai
mà biết được mắt Ngài nhắm hay mở. Điển hình là các bạn cứ nhìn
vào bức hình chân dung của Ngài thì sẽ biết. Bởi vì mỗi lần Ngài
cười, chúng em vẫn đùa là cười không thấy tổ quốc đâu.” Lời chia
sẻ trên tuy có phần hài hước, đơn sơ nhưng hàm chứa những gì mộc mạc
chân thành nhất nơi con người của Anh, một con người luôn vui tươi và
cởi mở với tất cả mọi người.
Không những thế, đời sống của Anh luôn biểu hiện
sự ân cần, lo lắng cho chúng em. Nhớ lại đúng một năm trước khi Anh
ra đi, Anh đã đến an ủi em khi nghe tin thân mẫu của em qua đời.
Anh Thắng! Phải, Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng vẫn
mãi để lại trong tâm khảm chúng em hình ảnh một người Cha, người Anh,
và người Bạn Đồng Hành gương mẫu. Hôm nay mỗi người chúng em thắp
nén hương cầu cho Anh, cho gia đình Anh, và những người thân còn ở
lại. Xin Anh sẽ phù hộ chúng em để tiếp tục những gì mà Anh chưa
hoàn tất ...
Trường Đỗ
Khi tôi mười bảy tuổi, tôi đã suy nghĩ về cuộc
sống với một tương lai đầy những ước mơ và khát vọng. Tôi biết cuộc
sống mà Thiên Chúa dành cho tôi luôn luôn tươi đẹp, nên tôi tin
tưởng rằng mình sẽ có một tương lai với những thành công và hạnh
phúc.
Một ngày đầu của năm học, tôi đã gặp Thảo My.
Tôi nghĩ Thảo My chính là người mà tôi đang tìm, hay còn gọi “người
trong mộng.” Thảo My trạc tuổi tôi và rất dễ thương, lại xuất thân
từ một gia đình bình dân. Ngày đầu tiên tôi gặp Thảo My, tôi đã
thấy trong lòng mình như vui hẳn lên. Mỗi khi rảnh rỗi, hình bóng của
Thảo My lại xuất hiện trước mặt tôi. Tôi cảm thấy cô đơn những khi
đi bộ một mình trong công viên, nhìn mặt hồ vắng lặng, và lắng nghe
tiếng chim hót trong những buổi chiều buồn. Sau một thời gian dài qua
những lần gặp gỡ và tâm sự, tôi thầm nghĩ phải chăng tôi và Thảo
My đã thương nhau …
Thế rồi ơn Chúa biến đổi lòng tôi. Qua những
buổi tĩnh tâm tôi lại có dịp để nghĩ về cuộc sống. Qua báo chí và
T.V., tôi biết xung quanh tôi còn rất nhiều em bé mồ côi không nhà,
những làng mạc chưa biết đến tình thương của Thiên Chúa cứu thế. Qua
nhiều ngày suy nghĩ và cầu nguyện, tôi đã quyết định hy sinh tình cảm
hiện tại của mình để đổi lấy một tình yêu vĩnh cửu. Tôi biết Thiên
Chúa rất thương tôi, Ngài đã dựng nên tôi và chết vì tôi. Thế tại
sao tôi lại không thể hy sinh tình cảm riêng của mình để theo Ngài và
mang tin vui của Ngài tới mọi người. Tôi nhận ra rằng tình yêu phải
được trả bằng tình yêu, nên tôi đã đáp trả lại tiếng gọi tình yêu
của Ngài.
Tuy vậy trong thân phận con người yếu đuối, tôi
vẫn thường tâm sự với Ngài rằng: “Lạy Chúa, Chúa biết tâm hồn con,
Chúa biết con thương Thảo My và Thảo My cũng thương con. Nhưng nếu con
phải chọn giữa Ngài và Thảo My, con sẽ chọn Ngài.”
Vào mùa thu 1995, tôi đã tạm biệt mọi người để
vào Dòng Ngôi Lời. Tôi đã ra đi trong sự động viên của gia đình,
trong sự ngạc nhiên của bạn bè, và trong sự tiếc nuối của Thảo My.
Khi tôi bước vào cánh cửa của trường Divine Word, buồn vui lẫn lộn
trong lòng tôi. Tôi buồn vì từ đây tôi phải xa bạn bè và gia đình
để đương đầu với một cuộc sống mới đầy thử thách. Giờ đây, tôi
không còn sống cho riêng tôi nữa mà tôi sống cho Ngài, vì Ngài. Với
bản tính thường cảm thấy lo sợ cho ngày mai, nhưng tôi quyết đặt tương
lai của tôi trong bàn tay êm dịu của Ngài. Tôi tin rằng Ngài sẽ đi
bên tôi và nâng đỡ tôi trong cuộc hành trình đầy thử thách này.
Sr. Trần Thị Oanh, SSpS
Nữ Tu Việt Nam đầu tiên của Dòng Nữ Chúa Thánh Thần,
Dòng có cùng Vị Sáng Lập Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời.
Rất nhiều lần gìữa những cuộc hội họp tôi đã
phải đương đầu với câu hỏi chất vấn "Tại sao Sơ đi tu?". Một
số hỏi vì lòng thật, số khác vì tò mò hoặc có vẻ thương tiếc dùm
cho tôi. Có nhiều khi nửa đùa nửa thật tôi trả lời “Không ai thương
nên đành phải đi tu.” Hôm nay nhận được cánh thư từ Chicago gửi đến,
quý thầy xin tôi chia sẻ ít hàng về “ơn gọi”, con đường tôi chọn. Hy
vọng những lời đơn sơ này, ít nhiều người đọc sẽ cùng với tôi hiểu
ra được, thế nào là tình yêu của Thiên Chúa cho con người và cho
riêng đời tôi.
Lớn lên trong vùng có nhiều tu viện xung quanh,
bỗng nhiên tôi mến chiếc áo dòng, và rồi ước mơ làm ma-xơ nảy sinh.
Giấc mơ của tuổi nhỏ thì đơn sơ, khờ dại. Cùng với một cô bạn thân,
hai chúng tôi mạnh dạn vào Đa Minh Thủ Đức xin đi tu. Bề trên chỉ nhìn
và bảo “Thôi thì cứ cuối tuần vào đây học hỏi giáo lý chung với
các chị đệ tử.” Thời gian sống với các chị Đa Minh chưa được bao lâu,
thì tôi rời làng xóm thân yêu ra đi vào tháng 5 năm 1981. Ba ngày
đêm lênh đênh trên mặt biển, chả còn gì hết, tất cả chỉ chờ đợi
cái chết. Dưới gầm tàu nửa tỉnh nửa mê tôi không van xin khấn
nguyện, bởi hy vọng thật sự chẳng còn, tôi chỉ đặt câu hỏi “Con
chết thật sao Chúa?” Để chất vấn với thượng đế, đấng mà tôi vốn
tin là quyền năng, toàn vẹn. Và rồi không có câu trả lời, chung
quanh chỉ là im lặng với sợ hãi. Biển tháng năm của những ngày toi
đi thật êm đềm, không một chút sóng, không một lần gian nan bởi
cướp bóc, có lẽ chính vì vậy mà lòng tôi thật chua xót, đắng cay khi
biết mình sắp phải chết, chết một cách oan uổng. Bỗng một bác lớn
tuổi trên tàu đưa ra một đề nghị “Dù thế nào chúng ta cũng phải đặt
hết hy vọng vào Trời, Phật, Thiên Chúa, ai tin Phật thì vái Phật, ai
đạo công giáo thì cầu xin Chúa. Cố gắng lên, phải còn hy vọng.” Tôi
bắt đầu thì thầm cầu nguyện, cầu mong cho mình một cái chết bình an
hơn là sớm tìm được bến bờ tự do. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, như
một phép lạ, một hồng ân, chiếc tàu buôn Hòa Lan nhìn thấy chúng
tôi và rồi mở đôi tay nhân đạo cứu vớt.
Bước chân lên Singapor, trại ty nạn vốn có tiếng
là thiên đàng, nhưng giữa cái thiên đàng đó, vẫn ẩn náu những bóng
hình nghèo nàn tả tơi. Nơi đây tôi đã học được và thấy được tận
mắt, thế nào là chia sẻ miếng cơm manh áo. Một chia sẻ trong tình
người, không giống như những ngày ở quê nhà, tôi chỉ cho đi khi mình
có quá nhiều và dư thừa. Bên cạnh đó tôi cũng nhìn ra được thế nào
là cấu xé, tranh giành, tham lam của không biết bao người đang sống
chung quanh mình. Cuộc sống trong trại tỵ nạn đã khơi dậy trong lòng
tôi một ước mơ: ước mơ được đến với từng người, để chia sẻ, để cảm
thông từng đắng cay, chua xót nhọc nhằn với họ. Ba tháng sau tôi rời
trại, tôi đặt chân lên mảnh đất tự do với nhiều ước mơ và hứa
hẹn. Hòa Lan xứ sở của bơ sữa, hiền hòa, nhưng không kém phần cấp
tiến về mặt giáo hội. Khó khăn lớn nhất của tôi lúc này là ngôn
ngữ. Trước mắt là cả một thách đố, nếu tiếp tục ôm ấp giấc mơ
làm ma-soeur truyền giáo, tôi ngại khó khăn, tôi sợ chờ đợi. Giưã
cảnh thiếu thốn tình đồng hương, bốn bề là Hòa Lan tôi khao khát một
mảnh tình quê hương, tôi mơ ước sáng tối được đọc kinh bằng tiếng
Việt, và rồi để trốn chạy, tôi ngược xuôi kiếm tìm, từ Bỉ qua đến
Đức cuối cùng chỉ là thất bại. Tôi tự nghĩ “Mình không có ơn gọi!”
Trở về Hòa Lan buồn thật nhiều, nhưng còn biết làm gì hơn là bắt đầu
lại từ đầu. Tôi tìm trường và nghề nghiệp xong xin đi học trở lại, 2
năm học ngắn ngủi qua mau nhưng đủ để tôi cảm nghiệm rằng, vẫn có
một hình bóng quyến rũ tôi, một bàn tay mời gọi tôi bước tới. Có
biết bao sinh hoạt, hội họp, rong chơi cuối tuần nhưng tất cả đã
chẳng lấp đầy khoảng trống của tâm hồn tôi, tôi vẫn thấy thiếu
vắng làm sao ấy. Quen với cha Gerard SVD, (người Hòa Lan) đã lâu. Lần
nào ghé nhà, ngài cũng bảo xuống thăm dòng Nữ Tỳ Thánh Linh Truyền
Giáo cho biết, tôi chỉ cười và không nói, bởi nghĩ rằng “Ở đây ít
người đi tu, vào dòng rồi mang tiếng là truyền giáo nhưng không biết
họ có gởi mình đi không, hơn nữa tối sớm chỉ có bánh mì và khoai
tây. Tôi tự nhủ: liệu tôi có theo đuổi cuộc sống tu trì đến cùng
hay là lại bỏ giữa chừng thôi!” Lần nào tôi cũng ngỏ ý cám ơn cha
Gerard nhưng cha chối từ khéo. Hè 1990 tôi đi Canada thăm gia đình,
trước khi về ít ngày, nơi chị và các em tôi ở, có tổ chức một thánh
lễ ngoài trời cho mọi dân tộc trong vùng. Tò mò, tôi cũng đi cho
biết, đứng giữa khung cảnh bốn bề là một nhà, cùng nhau dâng lên
cha lời nguyện chung tôi tự nhủ “Chúa ơi! con sẽ phải làm gì?” Không
có câu trả lời và tôi quên mau, bởi chẳng cố ý đặt nặng vào vấn
đề. Những ngày thăm gia đình qua mau, trở về lại Hòa Lan tôi tiếp
tục đi học, nhưng chuyện chưa vào đâu cả, bỗng nhiên có một ngày
tôi cầm điện thoại, điện thăm cha Gerard và rồi xin ngài làm hẹn
với các sơ dòng Nữ Tỳ Thánh Linh cho tôi xuống thăm, nửa tiếng sau
ngài gọi lại cho tôi và nói “không có vấn đề gì cả” cứ xuống và
ngài sẽ đón tôi ở nhà ga.
Thật sự cho cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn không
hiểu được tại sao hôm đó tôi cầm điện thoại để làm hẹn xuống thăm
dòng. Tôi chỉ có thể khẳng định được rằng, đây là câu trả lời bỏ
dở của cái hôm tôi còn ở Canada, lúc đứng giữa buổi nguyện cầu,
miên man tôi đã hỏi chúa “Con sẽ phải làm gì? Chúa ơi!” Ngày 14
tháng 9 năm 1991 tôi nhập dòng, lúc đầu thật sự tôi cũng lo sợ,
ngôn ngữ, văn hóa, phong tục khác thường, liệu rồi có kiên nhẫn đủ
không, nhưng tình chúa luôn đủ cho con người và cho riêng đời tôi, sau
một năm làm đệ tử ở Aachen (bên Đức), 14-08-1992 tôi lãnh nhận áo
dòng xong vào nhà tập 2 năm ở Wollerdorf (Áo Quốc), 15-08-1994 trở về
nhà chính ở Hòa Lan tôi tuyên khấn lần đầu.
Giấc mơ của bao năm bây giờ đã là thành hiện
thực. Nhìn lại tôi chỉ có thể nói được rằng, Thiên Chúa thật sự ban
tặng cho đời tôi những gì tôi mơ ước. Ngài muốn tôi trở thành
ma-soeur truyền giáo cả ngàn lần hơn lòng tôi mong ước. Với thánh ý
Ngài và lòng mong mỏi của tôi đã giúp tôi đạt được ước nguyện
này.
Giọt Sương Nhỏ
Cách đây tám năm tôi có một cái nhìn thật khác
về đời tu! Tôi cứ cho rằng nếu Chúa đã mời gọi tôi vào dòng thì
ngài sẽ làm tất cả mọi sự, ngài sẽ giải quyết mọi vấn đề, còn
tôi thì cứ yên lặng cầu nguyện và phó thác dâng tất cả trong tay
ngài. Rồi tôi nghĩ một tu sĩ thì phải ngồi thế này, đứng thế kia, ăn
nói thế nọ…Tất cả phải ra vẻ…”tu sĩ thánh thiện, mới xứng đáng với
ơn gọi! Nói chung, lúc nào tôi cũng muốn một sự toàn thiện theo
cách nhìn riêng của tôi. Sau bao sóng gió, bão táp của cuộc đời, và
bao năm tiến bước chậm trong tu đức con mắt tôi mới bắt đầu bừng
tỉnh…Có hai điều quan trọng trong cuộc sống tu hành mà tôi vẫn sống
và quan niệm thật sai: điều thứ nhất là tôi luôn cho rằng Chúa có
một trách nhiệm thật lớn trong cuộc đời của tôi, ngài sẽ biến đổi
mọi sự, thành công hay thất bại đều do chúa mà ra cả; điều thứ hai
là tôi đã chập chững bước vào cuộc sống tu hành với một bộ mặt
nạ giả dối. Tôi đã mất con người thật của mình và sống đầy sự sợ
hãi, đè nén…!
Nơi đây Chúa sẽ chẳng bao giờ làm hết mọi sự
thay cho người ngài thương cả! Ngài quyết không dành sự dễ dãi cho những
ai dấn thân trên bước đường tận hiến theo Ngài vì đường về thiên
quốc Ngài còn rất xa…Tôi hình dung Chúa như một người cha, và tôi là
một đứa bé đang tập đi. Khi thấy con mình đã chập chững được vài
bước, người cha sẽ từ từ buông tay ra để nó có thể tự đi một mình.
Có đứa bé nào khi tập đi mà không bị té? Có đứa bé nào biết đi và
đi vững nếu người cha không để nó tự đi một mình sau những ngày
luyện tập? Hành trình cuộc sống của tôi từ nay cũng phải thế: tôi
phải té ngã, phải đau, phải trầy trợt, phải đổ máu thì mới mong có
một cuộc lên đường đầy tự do, thênh thang và hạnh phúc. Còn Chúa,
Ngài luôn đồng hành, không phải để quan sát hay kiểm soát, cũng
chẳng phải để làm hết mọi chuyện, nhưng để tham dự, thông phần,
nâng đỡ, và nếu cần, Ngài sẽ làm chút phép lạ để khích lệ tinh
thần tôi…
Biết rõ vậy mà nhiều lúc tôi vẫn thấy bất an!
Trong đời tu lắm khi tôi ngờ vực tình yêu Chúa. Tôi nghĩ mình được
quẳng vào đời rồi loay quay như một chiếc lá lìa cành, gió thổi đi
đâu thì thổi…Rồi tôi trách Chúa, trách nhất là những lần tôi cố
hết sức để làm một điều gì đó nhưng chẳng thành công nổi! Tôi ồn
ào van xin nhưng Ngài vẫn yên lặng; tôi khóc, tôi vùng vẫy để rồi
cuối cùng tôi thấy chỉ có một mình trơ trọi, tàn rã với một thất
vọng nặng nề. Có lúc tôi trách Chúa đã làm tôi xa quê Việt thân
thương, trách Chúa bắt tôi nói một ngôn ngữ khác, sống một phong
tục khác và phải ăn những món ăn vô gia vị! Có lúc thèm một bát
cơm nguội và một trái cà mắm mà cũng chả có, huống chi những tập
quán và truyền thống đầy dân tộc tính của người việt. Chúng đã ẩn
sâu trong tim óc và huyết quản, vậy mà theo Ngài tôi đã mất tất
cả, mất luôn chính tôi!
Sáng nay thật lặng lẽ, tôi bước vào nhà cầu
nguyện. Ngồi im trước nhan thánh Ngài, những thao thức, buồn tủi đó
lại trở về…Tôi lắc đầu chẳng hiểu nổi thánh ý Ngài! Tôi cứ thấy
tim mình nhưng nhức sao đâu! Chẳng lẽ Chúa không bao giờ có mặt trong
hành trình đời tôi? Chẳng lẽ tôi bỏ mọi sự để theo Ngài rồi Ngài
chẳng đoái hoài gì tới tôi? Như vậy đâu có công bằng! Rồi tôi thấy
bất an và ngờ vực tình Ngài quá đỗi! Đã vậy bạn bè tôi bỏ ra về
sau sáu bảy năm sống với Chúa và phục vụ Ngài trong từng thân phận!
Chẳng lẽ cuộc sống này cũng chẳng thuộc về tôi sao? Rồi tôi lại
lặng nhìn thập tự…Tôi bỗng thấy thân xác Chúa cũng tàn rã, rời ra
từng mảnh nhỏ, cũng đau khổ quá! Nỗi đau nào thật sầu kín cứ gặm
nát tâm linh tôi…Rồi trong im lặng Chúa đến! Ngài đến và gỡ hai tay
trên cơn bão tâm hồn tôi và làm cho mọi sự lắng xuống…Tôi chẳng
hiểu Chúa đến lúc nào và giải thích ra sao nhưng bỗng dưng tôi thấy
mình đã lầm, lầm to! Bao năm nay, Chúa vẫn có mặt trong từng biến cố
đời tôi, Ngài có đó trong từng giọt nước mắt, trong từng nụ cười,
niềm vui. Cách yêu của Ngài thật lạ: để dạy tôi biết giá trị của
ánh sáng, Ngài đã đặt tôi vào bóng đêm; để dạy tôi biết yêu quí
Quê Hương, Ngài đã tách tôi ra khỏi Việt Nam thân thương; để cho tôi
thấy tiếng Việt giàu và phong phú, Ngài muốn tôi nói tiếng ngoại
quốc; để dạy tôi thấy vẻ đẹp vô thường của Thiên Chúa, của nội
tâm. Ngài cho tôi sống với những con người của tính toán, của kỹ
thuật, máy móc; và để dạy tôi sống khiêm tốn, luôn thấy cần có
Chúa. Ngài đã làm cho tôi “rớt lộn cổ xuống ao!” Tôi bỗng giật
mình! Trời ơi, những năm đó tôi đã sống quá mãnh liệt, và nhiệt
tình cho quê hương, cho gia đình, cho bạn bè, và cho chính tôi! Ngày nào
mà tôi lại không thương và nghĩ về chúng? Những năm đó, Ngài đã
dạy cho tôi ý nghĩa của hai tiếng “Tình yêu” cao cả. Những năm đó có
thể là nước mắt và thập tự nhưng sao lại đầy Thiên Chúa thế? Ngài
có xa tôi bao giờ đâu! Ngài vẫn im lặng để nâng đỡ và cùng với
tôi chăm sóc cho mảnh vườn tâm linh đấy chứ! Cách yêu và cách sống
của Ngài quá kỳ lạ! Ngài cứ yêu, cứ kề cận bên tôi mặc cho tôi
có nhận thấy hay không cũng được!
Chúa xưa lúc còn ở với môn đệ, Ngài đã sống
rất con người và chẳng bao giờ sợ chia sẻ những nhân tính yếu đuối
đó với bạn bè Ngài. Ngài có sao sống vậy, chẳng giấu diếm, sợ
sệt:
“Tim Ta đau
khổ đến chết được. Hãy ở lại với Ta và cầu nguyện.” (Mark 14:34)
Rồi trong cuộc đàm thoại với thánh Phêrô, Chúa
cứ muốn nghe Phêrô nói: “Lạy Chúa, con yêu Ngài!” Ngài muốn nghe
điều đó tới ba lần lận, và Phêrô cứ phải lập đi lập lại mãi!
Ngài chẳng bao giờ đến với các môn đệ cách co
cụm, đè nén, giấu diếm. Sức mạnh Ngài tỏ rõ nhất khi Ngài chia sẻ
những yếu đuối, đau buồn đó với các môn đệ. Ngài đã chia sẻ chính
“mình và máu” Ngài trong bữa ăn cuối với các môn đệ trước khi Ngài
tự nộp mình cho quân dữ! (Mark 14:22-25) Ngài đã từng nổi giận và xua
đuổi tất cả những kẻ buôn bán trong đền thờ Thiên Chúa (Mark
12:15-17). Ngài cũng đã từng nướng cá, ăn uống với các bạn bè Ngài
sau khi Ngài sống lại từ cõi chết (John 21:9-10). Chính vì Ngài đã
sống quá con người mà Ngài đã được Chúa Cha cho nhập thể và nhân
tính Ngài trở nên mạnh mẽ vô thường.
Theo tôi, một trong những yếu tố làm xa ơn gọi
(bất cứ ơn gọi nào) chính là lúc chúng ta cố tình sống xa bản tính
con người, xa chính chúng ta! Chúng ta cứ muốn cao bằng, hoặc hơn Thiên
Chúa! Chúng ta cứ lầm tưởng rằng ta phải đến với Chúa và đồng loại
như một vị thánh, như một kẻ đã đắc đạo, toàn thiện, tốt lành. Tại
ta lúc nào cũng muốn nghe những chuyện tốt lành, vui vẻ, và môi thì
lúc nào cũng bóng bảy những ngôn từ thánh thiện nhân đức. Chúng ta
chẳng dám hé môi thú nhận: “Tôi cô đơn…”, “Tôi buồn…”, “Tôi nhớ…”,
“Tôi là con người…” Vì không sống thật với mình, vì không muốn chia
sẻ những nhân tính yếu đuối mà chúng ta đã vô tình xây một bức
tường vĩ đại để ngăn cản những kẻ đang sống rất con người. Thế rồi
chẳng bao lâu ta mất chính con người mình và lần bước vào đời với
một bộ mặt thật khác. Lâu ngày, những điều tưởng là tốt lành
thánh thiện đó đã tạo nên một kẽ hở thật lớn cho ma quỉ cư ngụ và
lúc đó ta đã biến thành một khí cụ đắc lực của chúng mà vẫn không
hay biết! Chúa chúng ta, với bản tính Thiên Chúa khi nhập thể, đã
sống rất con người; còn chúng ta thì sao, hỡi loài tạo vật nhỏ bé?
Thánh Ignatinus hay nói về sức mạnh Thiên Chúa và
sức mạnh ma quỉ. Theo Thánh Nhân sức mạnh Thiên Chúa chính là ở chỗ
nghèo khó, nhịn nhục và khiêm tốn. Sức mạnh của ma quỉ thì ngược lại
là say mê vật chất, địa vị, kiêu căng và tự cao. Thoạt nhiên tôi
chẳng hiểu vì sao nghèo khó lại có thể là sức mạnh được? Rồi cũng
trong trạng thái im lặng, lắng nghe, Chúa đã nói…Ngài nói với tôi
qua những chia sẻ, thao thức của bạn bè, của những kẻ đồng chí
hướng, và nhất là qua tờ Đặc San Ngôi Lời 96. Càng đọc tôi càng
thấy sức mạnh của nghèo khó, bình dị và khiêm tốn hơn. Chẳng hạn trong
bài chia sẻ “Nỗi Ưu Tư” của Bờm Tui, Bờm đã cảm thấy một sức mạnh
tình yêu nào đó cứ dâng trào trong lòng khi Bờm chứng kiến cảnh
nghèo khó của ba mẹ con bên đường, và Bờm đã quyết định: “Phải làm
lại từ đầu”, “Phải canh tân”, “Phải thay đổi”. Cũng vậy, trong
“Thoáng Suy Tư” của Peter Nguyễn Công, hồn ta đã tràn đầy sức mạnh
tình yêu khi “thấy một thiếu phụ ngồi run rẩy sau một bụi cây giữa
trời đông lạnh lẽo.” Hay trong “Niềm Tin Và Sự Quan Phòng” của Hồng
Quang, Hoàng cứ ao ước phục vụ “những người nghèo khổ”. Hoàng đã
giúp các em thiếu nhi tị nạn, và “tất cả những điều đó đã mang lại
ý nghĩa cho cuộc sống của Hoàng.” Cũng thế, khi bạn bè tôi có dịp
chia sẻ về ơn gọi, ai cũng nói: “Tôi đi tu thấy cảnh nghèo của…”
hoặc, “Tôi muốn phục vụ vì thấy và chứng kiến cảnh khó khăn nghèo
nàn của…” Chưa bao giờ tôi nghe nói đi tu để được chức phận như bà
kia giàu sang hay ông nọ có quyền thế, ăn trên ngồi trước. Điều đó
chứng tỏ tinh thần nghèo khó, nhịn nhục và khiêm tốn là sức mạnh
Tình Yêu, hay nói cách khác, đó chính là sức mạnh Thiên Chúa vậy!
Viết tới đây tôi nghĩ đến Thánh Phanxicô ! của thành Assisi. Thuở ấy
không có sức mạnh nào có thể đanh tan được ước muốn sống thật khổ,
thật nghèo của ông, và ông đã tràn đầy sức mạnh tình yêu!
Ma quỉ thì khác, chúng cứ lợi dụng lúc người ta
sống khó nghèo, trong sạch, nhịn nhục, là tấn công tới tấp. Hồi
tưởng lại chuyện Chúa ăn chay trong sa mạc: Ma quỉ chỉ xuất hiện khi
Ngài đói mà thôi! Và khi đói thì ai lại không ăn? Nhưng bí quyết của
Ngài là: tỉnh thức và cầu nguyện! Chính vì thế thức ăn của Ngài là
“làm theo ý Cha.”
Trong cuộc sống tu hành cũng vậy, ma quỉ chỉ đến
khi tôi rời xa sức mạnh của Thiên Chúa, (nghèo khó, nhịn nhục, và
khiêm tốn) khi tôi quên xét mình mỗi ngày, khi tôi mê ngủ quên cầu
nguyện.
Theo Thánh Ignatius thì trong cuộc sống tu trì ai
cũng có lúc trải qua hai giai đoạn: giai đoạn gần Chúa, yêu Chúa
(consolation), và giai đoạn thấy xa Chúa, nằm hoàn toàn trong bóng tối
(desolation). Các Thánh ai cũng đã sống qua những giai đoạn này, nhất
lúc thấy lạc vào bóng tối mà chẳng có lối thoát. Những lúc như
vậy nếu họ không xét mình thường xuyên, không liên kết sâu sa với
Chúa thì sức mạnh ma quỉ sẽ nằm trên sức mạnh Thiên Chúa và dần
dần họ sẽ xa Chúa mà không hay biết. Tôi cũng đã sống qua những
giai đoạn đó, nhưng Chúa đã căn dặn kỹ: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện
để khỏi sa chước cám dỗ.” Thật vậy, trong bóng tối chúng ta dễ lạc
xa Chúa biết bao!
Trong thực tế, đã bao lần tôi bị lung lay từ sự
cực này sang sự cực khác mỗi khi có người rời dòng, nhất là những
người tôi thương. Có một tiếng mời gọi nào đó trong tôi…tiếng mời
gọi tôi xa sức mạnh Thiên Chúa…Rồi tôi cứ tự hỏi về đời sống ơn
gọi của mình và thấy mình từ từ rơi vào một vùng bóng tối rất
sâu…Nhưng rồi cũng như mọi lần, Chúa lại kiên nhẫn giải thích…Ngài
nhắc tôi nhớ lại lần ngài gọi mời Phêrô theo Ngài sau khi Ngài
sống lại. Với một cái nhìn đầy yêu thương Chúa đã nói: “Phêrô! Hãy
theo ta!” Nhưng Phêrô thì cứ lo lắng, băn khoăn, thắc mắc, dù trong
lòng rất ao ước theo Chúa: “Còn John thì sao?” Chúa đã trách nhẹ nhưng
rõ ràng: “John có đường của John. Bổn phận ngươi là hãy theo Ta, đừng
quá thắc mắc về kẻ khác.” (John 21:21-23)
Phận tôi, tôi thấy mình phải theo Ngài như vậy.
Cách Ngài gọi tôi rất khác với cách Ngài gọi các bạn bè tôi, rất
riêng tư và rất yêu thương. Tôi phải theo Ngài một cách trung thành,
không đắn đo, không lo lắng hay bị chi phối bởi kẻ khác. Bổn phận
của tôi là lên đường với Ngài không chậm bước!
Rời nhà nguyện, tôi lặng lẽ dạo bộ ra vườn. Cỏ
sáng nay sao thắm xanh thế! Và mặt trời cứ lặng lẽ lan tỏa những tia
nắng ban mai thật ấm áp trên gò má, trên môi tôi! Một niềm bình an
thật khó tả cứ ngấm dần vào da thịt, tế bào, và tôi biết sự bình
an đó chỉ có Ngài mới có thể ban phát được. Vươn vai hít thở không
khí trong lành, tôi bỗng thấy sảng khoái và đầy sức sống! Đang say
sưa trong sự bình an mà Ngài ban phát, tôi bỗng thấy như lặng đi trước
vẻ đẹp kỳ lạ của những giọt sương sớm! Tôi không thể tin vào mắt
mình được nữa! Những hạt sương mai bỗng biến thành những hạt kim cương
sáng chói! Tia nắng mặt trời đã biến thảm cỏ và những giọt sương
nhỏ đó thành một cánh đồng đầy kim cương lấp lánh!
Thỉnh thoảng một cơn gió thật nhẹ bay qua và những
hạt kim cương bỗng trở mình run rẩy trong nắng sớm. Tôi đứng lặng
trước vẻ đẹp đó! Chưa bao giờ tôi thấy những giọt sương mai lại đẹp
và đầy sức sống thế! Chúng tràn đầy ánh sáng và vẻ đẹp của Đấng
Tạo Hóa! À, Chúa đâu có chết! Ngài vẫn sống và làm việc cực nhọc
cho từng tạo vật đó chứ! Hãy thức dậy đi! Hãy nhìn những tia nắng
ấm! Hãy lắng nghe những nhịp tim đang đập trong lồng ngực của ngươi!
Hãy cảm nghiệm dòng máu nóng đang luân chuyển khắp cơ thể…Chúa đâu
có xa ngươi bao giờ! Chúa đâu có rời ngươi phút giây nào! Trong
thoáng chốc, tôi thấy mình như một hạt sương nhỏ, chỉ là nước thôi,
không màu sắc, không mùi thơm, và rất vô vị, vậy mà khi ánh sáng
tình yêu Ngài chạm vào, tôi bỗng biến thành một hạt kim cương bảy
màu rất đẹp, rất quí giá! Và tôi ao ước được sống mãi trong ánh
sáng, sức mạnh tình yêu Ngài…