Cầu nguyện và Hành động
Nguyễn
Chính Kết
Trong đời sống Ki-tô giáo, việc cầu nguyện là việc không
thể thiếu được. Có thể nói, người Ki-tô hữu nào không cầu nguyện, thì không
phải là Ki-tô hữu đích thực. Cầu nguyện là kết hợp với Chúa, nguồn sức mạnh,
nguồn hạnh phúc, nguồn ân sủng.
Nhưng,
người cầu nguyện đích thực thì không thể chỉ cầu nguyện mà không hành động. Vì
cầu nguyện là tiếp xúc với Thiên Chúa, nguồn sức mạnh và năng động, nên không
thể nào khi tiếp xúc với Thiên Chúa đích thực mà con người lại không bị Thiên
Chúa biến đổi. Không thể nào một người tiếp xúc thật sự với Thiên Chúa, nguồn
sức mạnh và năng động lại không được Thiên Chúa truyền sức mạnh cho, mà vẫn cứ
ở trong tình trạng ù lì thụ động. Nếu thánh Giacôbê bảo: «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,17&26), thì
một cách tương tự, cầu nguyện mà không
hành động thì không phải là cầu nguyện thật. Thánh Giacôbê còn nói: «Nhờ hành động mà con người được nên công
chính chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi» (Gc 2,24). Ngài đưa ra một
thí dụ cụ thể: «Giả như có người anh em
hay chị em không có áo mặc che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai
trong anh em lại nói với họ: “hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no nhé!” mà
lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?»
(Gc 2,15-16). Cũng tương tự như thế đối với cầu nguyện và hành động.
Cầu
nguyện mà không có việc làm cụ thể, chúng ta dễ tưởng rằng mình đã làm xong bổn
phận của người Ki-tô hữu, là yêu mến Thiên Chúa, và cũng dễ bị cám dỗ nghĩ rằng
mình đạo đức. Khi đọc kinh cáo mình đọc đầu thánh lễ, người ta thường nghĩ đến
những hành động sai trái của mình, chứ ít nghĩ đến «những điều thiếu sót». Thiếu sót ở đây là những điều đáng lẽ mình
phải làm mà đã không làm. Do đó, để quân bình hóa đời sống Ki-tô hữu, chúng ta
cần cầu nguyện thật nhiều, mà cũng cần hành động thật nhiều. Cầu nguyện và hành
động phải tương xứng với nhau. Cầu nguyện để được Chúa soi sáng và có sức mà
hành động. Và hành động để biến cầu nguyện thành hiện thực, thành ích lợi đích
thực cho bản thân và mọi người. Cầu nguyện chỉ trở thành hiện thực và có giá
trị khi đi đến hành động thật sự.
Sau
thánh lễ, linh mục nói một câu ra lệnh (impératif), nguyên văn Latinh là: «Ite, misa est» mà nếu dịch sát thì phải dịch:
«Hãy ra đi, đó là lễ misa»,
điều này ai biết tiếng Latinh cũng phải công nhận. Dịch rằng «Lễ xong, chúc anh chị em ra về bằng an!» thì tôi không biết là có đúng với ý của Giáo Hội không. Ra đi
và ra về, diễn tả hai tinh thần khác nhau. Ra đi – tức không về
nhà – là để hành động, ra về – tức về nhà – là để nghỉ ngơi! Dịch bằng ra về, khiến người Ki-tô
hữu dễ tưởng rằng thánh lễ đã xong, ta đã làm hết bổn phận rồi, giờ thì về nhà
mà nghỉ ngơi. Chữ «bằng an» sau đó
lại càng nhấn cho mạnh nghĩa của nghỉ ngơi! Nhưng tôi biết chắc chắn rằng câu
nói cuối cùng của linh mục trong thánh lễ có dụng ý bảo mọi người hãy ra đi để
hành động, để thực hiện ý nghĩa của thánh lễ là trở nên một hy tế bằng chính
đời sống của mình. Và đó mới chính là thánh lễ (missa est! = voilà la messe!)
Như vậy, thánh lễ ở trong nhà thờ mới chỉ là nửa thánh lễ, còn phần chính của
thánh lễ là đời sống thực tế. Thánh lễ trong nhà thờ và thánh lễ trong đời sống
chỉ là một thánh lễ duy nhất, mà chúng ta nhiều khi tách ra thành hai mảng biệt
lập nhau. Thánh lễ trong nhà thờ ban sức mạnh cho thánh lễ ngoài đời sống,
thánh lễ ngoài đời sống biến thánh lễ trong nhà thờ thành hiện thực. Nếu nhận
được sức mạnh mà không làm gì cả, thì sức mạnh ấy dùng để làm gì?
Trong
thánh lễ nhà thờ, chúng ta cầu nguyện: xin cho con yêu Chúa, yêu tha nhân, cho
con biết khiêm nhường, biết cảm thông với người nghèo, v.v… Còn trong thánh lễ
đời sống, chúng ta cố gắng thực hiện những lời đó. Nếu chỉ biết xin mà không
quyết tâm cố gắng thực hiện, thì không biết đến bao giờ Chúa mới cho được những
điều ấy. Cũng như miệng nói «xin cho
chúng con hôm nay lương thực hằng ngày», mà tay chân lại chẳng thèm làm gì
để kiếm sống cả, thì có cầu xin hoài cũng vô ích.
Vào
trong nhiều đan viện, ta thấy câu này được viết ở nhiều nơi: «Ora et labora!» (cầu nguyện và làm
việc!). Hai việc ấy phải gắn liền với nhau. Không nên quá nhấn mạnh đến cầu
nguyện, mà quên nhấn mạnh đến hành động, nhất là những hành động thực tế đáp
ứng đúng gì những người chung quanh chúng ta đang cần. Dường như các nhân đức
Ki-tô giáo luôn luôn phải đi với nhau theo cặp. Có nhân đức này thì lại phải có
một nhân đức đối lập với nó. Không có nhân đức đối lập đó thì có thể nhân đức
kia không còn là nhân đức đúng nghĩa nữa! Khôn ngoan như con rắn, nhưng lại
phải hiền lành như con bồ câu!
Tôi
được tập thói quen từ hồi còn nhỏ là khi cầu nguyện thì hỏi Chúa: «Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?». Cách
cầu nguyện ấy rất hay vì nó gắn liền việc cầu nguyện với hành động. Nếu chung
quanh tôi mọi người đang bị áp bức, nghèo khổ, và cũng đang có những con người
phải vất vả đấu tranh chống lại áp bức và nghèo khổ, mà tôi hỏi Chúa câu ấy,
chắc chắn Chúa sẽ đề nghị ngay tức khắc với tôi một hành động cụ thể. Hành động
cụ thể thế nào thì còn tùy thuộc vào khả năng và chức vụ của tôi trong xã hội.
Nếu tôi là một người dân thường, chỉ giúp được những việc nhỏ, thì Chúa sẽ bảo
tôi làm việc nhỏ. Nếu tôi là một bộ trưởng, chắc chắn Chúa không bảo tôi làm
những việc nhỏ như thế, mà phải làm trong khả năng đúng với một vị bộ trưởng.
Như
vậy, trở
về với Chúa, với lòng mình và ra đi để đến với tha nhân cũng là
hai việc phải đi đôi. Tinh thần của thánh
lễ đích thực phối hợp và điều hòa hai hành động có vẻ ngược lại nhau ấy. Có
cái này mà không có cái kia thì cũng dễ bị khập khiễng.
Cần
phải hành động. Nhưng hành động dù có tốt đến đâu cũng phải đặt nó trên nền
tảng khiêm nhường. Không đặt trên nền tảng ấy thì coi chừng những động lực để
làm việc tốt của ta chỉ là nhằm được tiếng khen, được sự ủng hộ, v.v… Với động
lực đó, thì việc tốt lành ta làm chỉ có tác dụng làm tăng thêm lòng kiêu căng
của ta, một tác nhân hủy hoại toàn bộ công trình tốt đẹp của ta trước mặt Thiên
Chúa. Lucifer trước khi sa ngã chắc chắn đã làm được việc nhiều việc tốt lành
hơn các thiên thần khác, vì ông là thiên thần cao trọng, đáng yêu đáng mến và
có khả năng nhất trong các thiên thần. Nhưng kiêu căng đã biến ông thành ma
quỉ. Do đó, những người đang làm những công việc tốt đẹp phải coi chừng kẻo bị
«sôi hỏng bỏng không» vì sự tự hào về
những việc tốt đẹp của mình, mà lên mặt với người khác.
Vì
thế, khiêm nhường là hết sức cần thiết, nhưng khiêm nhường lại phải luôn luôn
đi đôi với lòng tôn trọng sự thật. Khiêm nhường không có nghĩa là tự hạ đến nỗi
phải phủ nhận bản chất và khả năng của mình, hay không dám hành động đúng với
bản chất và khả năng của mình. Khiêm nhường vẫn đòi hỏi mình phải nhận chân
được bản chất, giá trị, chức vụ, quyền hành, khả năng, bổn phận của mình, và
hành xử đúng với những điều đó. Một em bé làm trưởng một lớp học nhưng lại
không thi hành quyền trưởng lớp của mình khiến cho lớp đó như không có trưởng
lớp, trở thành lộn xộn mất trật tự, thì hành động đó không phải là khiêm
nhường. Một người con thấy cha mình cứ làm hoài một việc không đúng, mà không
dám lên tiếng một cách tế nhị để người cha nhận ra lỗi của mình hầu sửa sai,
cũng không phải là khiêm nhường. Mà tế nhị quá, sợ mất lòng quá đến nỗi không
nói đúng được điều mình muốn nói cũng không phải là khiêm nhường, vì có tế nhị
tới đâu, thì sự thật vẫn khó có thể không làm mất lòng. Mà người cha ấy nếu thấy
con nói có lý và chân tình mà không sửa sai, thì cũng không phải là khiêm
nhường.
Nếu
không nắm vững ý nghĩa của khiêm nhường, chúng ta dễ có khuynh hướng đồng hóa
khiêm nhường với nhu nhược.
Các
thánh nhân nói: «Nhân đức thì đứng giữa»
(virtus in medio stat). Quả thật, khó mà đứng ngay giữa, chỉ có thể đứng ở
khoảng giữa giữa thôi. Nếu đứng được ngay giữa thì đã là thánh rồi. Vả lại, hai
đầu mà luôn luôn thay đổi thì điểm giữa cũng luôn luôn thay đổi. Nên đứng giữa
được thì chỉ có Thiên Chúa! Khiêm nhường cũng chính là chấp nhận giới hạn của
mình, nhận chân rằng mình chỉ làm được như thế, nhưng vẫn phải cố gắng mà tiến
về giữa được chừng nào tốt chừng nấy. Còn đứng hẳn qua một bên thì chắc chắn
không phải là nhân đức rồi.
Tóm
lại, cầu nguyện phải đi đôi với hành động, khiêm nhường phải đi đôi với tôn
trọng sự thật.
NGUYỄN
CHÍNH KẾT