51
Câu truyện Tu đức
hàng
ngày
© 2001 - ĐCV Th.
Phanxicô Xaviê
01. Con Chim Trong Bàn Tay
Người Ba Tư có kể câu chuyện
ngụ ngôn như sau:
Ngày xưa,
tại quảng trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên
bố giải đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.
Một hôm,
giữa đám người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử từ trên núi
cao đến. Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh
muốn chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa
đám đông.
Anh tiến đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt
một con chim nhỏ. anh đặt câu hỏi như sau: 'Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một
con chim. Ngài là bậc thông thái biết được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết
con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?".
Nhà hiền
triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu ông
bảo rằng con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết
trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con
người khôn manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau một hồi
thinh lặng, trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời
như sau: "Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở
ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì
nó chết".
Ai trong chúng
ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an
bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc
hơn là hưởng nếm chính hạnh phúc đang cầm trong tầm tay của chúng ta. Hạnh phúc
đích thực chính là con chim mà mỗi người chúng ta đang có ở trong lòng tay. Con
chim ấy sống hay chết là tùy ở mỗi người chúng ta. Chúng ta được hạnh phúc,
chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta.
Hạnh phúc
đích thực của chúng ta, niềm vui đích thực của chúng ta chính là Thiên Chúa.
Nếu chúng ta để cho Thiên Chúa chiếm ngự, nếu chúng ta để cho Thiên Chúa lấp
đầy, thì cho dẫu ngoại cảnh có làbầu trời đen tối đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy
an bình, hạnh phúc.
Ý thức được
sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa chiếm trọn tâm tư, lấy Chúa
làm tất cả trong cuộc sống, chúng ta sẽ có được niềm vui đích thực.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Hakuin là
một thiền sư nổi tiếng tại Nhật Bản, ông sống ẩn dật trên núi. Ngày kia, có một
thiếu nữ con nhà gia giáo bỗng thấy mình có thai. Cô nàng tuyên bố với mọi
người rằng chính thiền sư Hakuin là tác giả của bào thai. Vừa nghe tin này, cả
dân làng, do cha mẹ của cô thiếu nữ dẫn đầu, đã giận dữ kéo đến chòi của vị
thiền sư. Họ la hét, chửi rủa vị thiền sư đủ điều...
Nhưng vốn
điềm tĩnh, nhà sư chỉ biết mỉm cười thốt lên: "Thế ư?". Ai cũng nghĩ
đó là một cách chịu tội. Ai cũng nghĩ chính ông là tác giả của bào thai trong
lòng người thiếu nữ. Khi đứa bé chào đời, thiền sư Hakuin lặng lẽ đến nhận nó
và đưa về chiếc chòi nghèo nàn của mình. Ông bồng lấy nó, nang niu nó và chăm
sóc nó như chính đứa con ruột của mình.
Nhưng khoảng 18 năm sau, người thiếu nữ bông hối hận về hành vi của mình. Cô
thú nhận rằng người cha của đứa bé chính là chàng ngư phủ trẻ trong làng.
Nghe tin
này, ai ai trong làng cũng cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ xấu và nhục mạ một con
người đáng kính. Một lần nữa, dưới sự dẫn đầu của cha mẹ thiếu nữ, cả làng kéo
nhau đến chòi của vị thiền sư. Mọi người sụp lạy tỏ dấu sám hối vì đã xúc phạm
đến thanh danh của vị đạo sĩ thánh thiện. Giữa lúc mọi người đồng thanh tuyên
bố sự vô tội và cứu gỡ danh dự cho mình, vị thiền sư chỉ mỉm cười nói:
"Thế ư?".
Hai tiếng
" Thế ư?" của thiền sư Hakuin trên đây xem chừng như cũng cùng một âm
điệu với hai tiếng "Xin vâng" của Mẹ Maria.
Thái độ điềm
nhiên và chấp nhận không chỉ là kết quả của một sự rèn luyện ý chí, nhưng còn
là một thể hiện của niềm tin. Thưa xin vâng trước tiên có nghĩa là tuyên xưng
Tình Yêu không hề lay chuyển của Thiên Chúa. Thưa xin vâng là chấp nhận đi vào
chương trình của Thiên Chúa, trong đó cho dù phải trải qua tăm tối và thử
thách, con người vẫn tin ở sự thành toàn.
Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin nơi chính bản thân: dù có yếu
hèn, vấp ngã, con người vẫn luôn là đối tượng của một Tình Yêu chung thủy và là
trọng tâm của một chương trình cao cả mà thiên Chúa đang thực hiện.
Thưa xin
vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin vào cuộc đời. Cuộc đời này, dù có đen
bạc đến đâu, vẫn luôn có một ý nghĩa và tha nhân, dù có thấp hèn, xấu xa đến
đâu, vẫn tiếp tục mang lấy hình ảnh cao vời của Thiên Chúa.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Một tác giả
người Thụy Điển đã tưởng tượng ra một cuộc tranh luận sôi nổi diễn ra giữa các
dân cư sinh sống tại một khu rừng nọ. Đề tài của cuộc tranh luận là: Đâu là ý
nghĩa của cuộc sống?...
Kẻ kên tiếng phát biểu ý kiến đầu tiên không ai khác hơn là chú chim họa mi
suốt ngày chỉ biết ca hát líu lo. Chú khẳng định rằng: "Đời là một cuộc ca
hát không ngừng". Một chú chuột chũi phản pháo tức khắc.
Theo chú:
"Đời là một cuộc tranh đấu không ngừng để chống lại bóng tối". Con
bướm có đôi cánh sặc sỡ thốt lên: "Đời là vui chơi và hạnh phúc". Con
ong đang miệt mài tìm mật bên mấy cánh hoa không tán thành ý kiến ấy chút nào.
Nó bảo rằng: "Đời là một cuộc lao động vất vả". Con kiến cũng nhất
trí với con ong để chỉ thấy rằng đời là lao động. Từ trên cao, một con phượng
hoàng cũng góp ý kiến: "Đời là tự do". Đó là ý kiến của động vật.
Các thảo mộc
cũng không thiếu ý kiến để đóng góp. Cây thông cao sừng sững giữa rừng hoàn
toàn tán thành ý kiến của con phượng hoàng: "Đời là tự do". Một cánh
hoa dại giữa rừng thì lại hùa theo con ong và con kiến để khẳng định rằng đời
chỉ là lao động vất vả. Cánh hoa hồng thì lại đồng quan điểm với con bướm để
cho rằng đời là hạnh phúc và vui tươi.
Thế giới vô
tri cũng lên tiếng phát biểu. Một đám mây đen ngao ngán thốt lên: "Đời chỉ
là đắng cay và nước mắt". Một dòng sông hiền hòa trôi chảy cũng nhận định:
"Đời là một dòng nước chảy không ngừng".
Lời phát
biểu cuối cùng nhưng cũng là ý kiến tổng kết của cuộc tranh luận là tiếng
chuông từ một giáo đường bên cạnh khu rừng. Thật thế, tiếng chuông ấy ngân lên
những lời như sau: "Tất cả những lời phát biểu của quí vị đều đúng cả. Đời
là hòa bình, đời là ca hát, đời là vui tươi, đời là tranh đấu, đời là bể khổ,
đời là đắng cay, nhưng tất cả đều tươi nở trong lòng người nhờ quyền lực của
Chúa Thánh Thần".
Tôi bởi đâu
mà đến? Tôi sẽ đi về đâu? Tại sao tôi đau khổ? Đó là những câu hỏi lớn nhất mà
một lúc nào đó trong cuộc sống, chúng ta không thể tránh né được.
Cám ơn Chúa
vì đã cho chúng ta giải đáp trong chính Chúa Giêsu Kitô. Chính Ngài là Ánh Sáng
chiếu rọi trên bí ẩn của cuộc đời cũng như trên chính Mầu Nhiệm của con người.
Công đồng Vatcican II trong hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng đã nói với chúng ta
rằng huyền nhiệm của con người chỉ có thể được sáng tỏ trong chính Mầu Nhiệm
của Ngôi Hai Nhập Thể.
Chúng ta chỉ
có thể tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi lớn của cuộc sống bằng cách nhìn
vào Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Ngài đã sống kiếp con người như mọi người. Nhưng
chính khi tiếp nhận mọi mùi vị của cuộc sống, Ngài đã mặc lấy cho cuộc sống một
ý nghĩa, một hướng đi.
Cuộc sống có ngọt bùi, đắng cay, chua sót, cuộc sống có lao động, tranh đấu hay
thảnh thơi... Tất cả đều mang lấy một ý nghĩa. Trong Chúa Giêsu, mất mát trở
thành thắng lợi, thua thiệt trở thành cơ may, đau khổ trở thành dịu ngọt, cái
chết trở thành khởi đầu của sự sống.
Nếu chúng ta
đón nhận cuộc đời này bằng với cái nhìn ấy, thì quả thực không một thử thách,
mất mát, đau khổ nào khiến chúng ta thất vọng. Với Quyền Lực của Thánh Thần mà
Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, những bể khổ, những đắng, cay chua xót của cuộc
sống đều có thể nở hoa, những niềm vui nhỏ ấy sẽ mang lấy chiều kích vĩnh hằng,
những việc làm vô danh thường ngày sẽ mang lấy giá trị vĩnh cửu.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Trong một
khu vườn tuyệt đẹp kia có nhiều loại hoa đua nhau khoe màu tranh sắc: Hoa Hồng,
hoa Hướng Dương, hoa Vạn Thọ, hoa Cúc, kể cả vài cụm bông Móng Tay và bông Mười
Giờ.
Một ngày
kia, có người đến nhìn ngắm những bông hoa đẹp, rồi lấy một cây thước ra đo
chiều cao, chiều dài cũng như đếm số các nụ hoa. Xong ông ta bỏ đi.
Ý thức về
chiều cao và độ lớn của mình, hoa Hướng Dương càng vươn cổ lên cao và nói:
"Trong khắp khu vườn, không hoa nào lớn mạnh như chúng tôi". Nghe nói
thế, hoa Hồng lên tiếng: "Nhưng không hoa nào đẹp và tỏa hương thơm ngát
như chúng tôi". Không chịu thua ai, hoa Vạn Thọ góp lời: "Hai người
nói thế nghe sao phải, to lớn và thơm tho nào có ý nghĩa gì. Hai người làm gì
có được nhiều bông hoa như chúng tôi".
Nghe những
loại hoa trên tranh luận, các loại hoa Cúc, hoa Móng
Sau đó, khu
vườn trở lại yên lặng trong khoảnh khắc. Nhưng hoa Cúc phá tan sự im lặng nặng
nề với những phát biểu sau đây: "Sao các anh, các chị lại có thể suy nghĩ
thế? Bởi đâu các anh các chị lại tranh nhau về chiều cao, về độ lớn, về vẻ đẹp,
về hương thơm. Anh chị quên rằng: Dù lớn hay nhỏ, dù mạnh hay yếu, dù đỏ hay
vàng, mọi bông hoa đều nhận lãnh hình hài, vẻ đẹp và hương thơm từ bàn tay của
Đấng Tạo Hóa và dưới mắt Người chúng ta đều như sau. Mỗi chúng ta đều được
Người ban cho đồng đều ánh sáng và hơi ấm của mặt trời. Mỗi bông hoa đều được
Người cho mưa rơi xuống gốc và sương sa trên mình như nhau. Đó là Mầu Nhiệm của
lòng quảng đại và khoan nhân của Thiên Chúa".
Sự phân bì,
ghen tuông đã và đang làm khổ đau cho con người cũng bằng tính tự cao, tự đại
hay ít ra tính phân bì, ghen ghét cũng làm cho chúng ta không được thư thái,
bình an. Vì thế, có người đã đề ra những phương pháp sau đây như những điều
kiện để được hưởng sự bình an trong tâm hồn:
Nếu tôi
không muốn so sánh mình với người khác, tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc với những gì
tốt đẹp nơi tôi.
-
Nếu tôi không làm nô lệ cho sự thành công, tôi có thể
sản xuất những thành quả tốt đẹp kẻ khác chờ đợi nơi tôi.
-
Nếu tôi không để mình bị vướng vào mạng lưới của sự
cạnh tranh, tôi sẽ thông phần và chia sẻ được những cái tốt đẹp hàm ẩn trong
tất cả mọi người.
-
Sách Lẽ Sống, Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Vào khoảng năm
1850, họa sĩ tài ba của Hoa Kỳ là James McNeil Whisler đang còn là một thanh
niên đầy nhiệt huyết. Mặc dù có tâm hồn nghệ sĩ, Whisler cũng đăng ký vào
trường đại học quân sự West Point.
Người ta kể
lại rằng khi giáo sư ra đề tài vẽ về một chiếc cầu, dĩ nhiên, các sinh viên
phải hiểu đây là một chiếc cầu cần được thiết kế trong mục tiêu quân sự. Thế
nhưng, tâm hồn nghệ sĩ của Whisler đã không đếm xỉa gì đến khía cạnh quân sự.
Anh vẽ một chiếc cầu thơ mộng bắc qua một mỏm núi thơ mộng. Dọc theo hai bên bờ
sông là một tấm thảm cỏ xanh tươi. Nhưng thơ mộng hơn nữa là có hai đứa bé đứng
câu cá trên chiếc cầu ấy.
Ông giáo sư
cầu cóng không ưng ý chút nào, nên đã ra lệnh cho anh phải bôi đi hình ảnh của
hai đứa bé. Viên sĩ quan bèn di chuyển hai cậu bé từ chiếc cầu xuống thảm cỏ
bên bờ sông. Lần này, ông giáo sư lại càng giận giữ hơn. Ông quát tháo ầm ĩ:
"Tôi đã bảo anh phải cất chúng ra khỏi bức tranh".
Nhưng con
người có tâm hồn nghệ sĩ xem chừng như không thể vẽ cảnh thiên nhiên mà thiếu
bóng dáng của con người. Không được sáng tác theo ý mình muốn, Whisler bèn vẽ
hai cái mộ trên thảm cỏ dọc theo dòng sông và muốn ông giáo sư hiểu ngầm rằng
anh đã chôn hai cậu bé trong hai cái mộ ấy.
Chiếc cầu
được bắc qua dòng sông là để nối liền hai bờ sông và chiếc cầu nối liền hai bờ
sông là để cho con người ở hai bên bờ sông được liên lạc với nhau. Thiếu sự đi
lại của con người thì chiếc cầu trở thành vô nghĩa.
Chúa Giêsu
là chiếc cầu nối liền Trời cao và Đất thấp. Nơi Ngài, con người và Thiên Chúa
gặp gỡ nhau. Chỉ trên chiếc cầu của Đức Kitô con người mới có thể gặp gỡ Thiên
Chúa và gặp gỡ nhau.
Ngài sinh ra
trong một gia đình, Ngài lớn lên trong một gia đình. Ngài đến để quy tụ tất cả
nhân loại thành một gia đình. Con đường cứu rỗi của Ngài là con đường mở rộng
cho mọi người cùng nắm tay đi với nhau. Chiếc cầu nối liền Thiên Chúa và con
người là chiếc cầu của gặp gỡ, của cảm thông, của yêu thương. Chúng ta chỉ có
thể đi về cõi phúc trên chiếc cầu của gặp gỡ, của yêu thương ấy.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Một lão bà nọ qua đời, được các Thiên Thần mang đến tòa phán xét. Trong khi
duyệt xét các hành động của bà lúc còn sống, Đấng phán xét đã không tìm thấy
bất cứ một hành động bác ái nào, ngoại trừ có một lần bà đã cho người ăn mày
một củ cà rốt. Tuy nhiên, Đấng phán xét tối cao đầy lòng nhân từ cũng xem hành
động ấy có đủ sức để mang người đàn bà lên Thiên Đàng. Dĩ nhiên, củ cà rốt sẽ
được dùng như sợi xích vững để người đàn bà bám vào và leo lên các bậc trong
chiếc thang dẫn về Thiên Đàng.
Người ăn mày
cũng chết vào khoảng trong thời gian ấy. Anh cũng được diễm phúc bám vào gấu áo
của người đàn bà để được đưa lên Thiên Đàng.
Một người
khác cũng qua đời vào ngày hôm đó. Người này cũng níu lấy chân của người hành
khất. Không mấy chốc, chiếc thang bắt đầu từ củ cà rốt mỗi lúc một dài ra đến
gần như vô tận: mọi người đều níu kéo nhau để lên Thiên Đàng. Nhưng từ trên
đỉnh thang nhìn xuống, người đàn bà bỗng châu mày khó chịu. Bà thấy sợi dây mỗi
lúc một dài, bà sợ nó sẽ căng ra rồi đứt chăng. Cho nên trong cơn bực tức, bà
cố gắng dành riêng cho mình củ cà rốt và la lên: "Các người giang ra, đây
là củ cà rốt của tôi".
Người đàn bà
cố gắng giữ củ cà rốt cho riêng mình cho nên sợi dây tạo nên chiếc thang bắc lên
Trời bị đứt. Bà rơi nhào xuống đất và cả đoàn người bám víu vào sợi dây ấy cũng
rơi theo.
Một tác giả
nào đó đã nói như sau: "Nguyên nhân của tất cả các sự dữ trên trần gian
đều bắt đầu từ câu nói điều này thuộc về tội, điều kia thuộc về tôi".
Khi con người
muốn chiếm giữ cho riêng mình là lúc con người cũng muốn chối bỏ và loại trừ
người khác. Nhưng càng muốn chiếm giữ cho riêng mình, con người không những
chối bỏ người khác mà cũng đánh mất chính bản thân mình. Tình liên đới là điều
thiết yếu cho sự thành toàn của bản thân chúng ta. Càng ra khỏi chính mình để
sống cho người khác, chúng ta càng gặp lại bản thân, chúng ta càng lớn lên
trong tình người. Đó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: "Ai
mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại bản thân". Hạnh phúc của bản
thân chính là làm sao cho người khác được hạnh phúc.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
07. Tu Đâu Cho
Bằng Tu Nhà
Thờ Cha Kính Mẹ Mới Là Đạo Con
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng
song thân.
Một hôm, ông
nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân
để đến thụ giáo bậc hiền triết.
Đi được nửa
đường, ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ: "Gặp được
bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật".
Dương Phủ
hỏi vặn lại: "Phật ở đâu?". Vị lão tăng giải thích: "Nhà ngươi
cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như
thế này thì chính là Phật đấy".
Dương Phủ
nghe lời quay về nhà. Đi dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì
đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở
cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà
vị lão tăng đã mô tả.
Từ đấy,
Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất thì
tu tại gia
Thứ hai tu
chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho
bằng tu nhà
Thờ cha kính
mẹ mới là đạo con.
Để yêu
thương con người một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người. Chúa có
cha, có mẹ. Chúa sinh ra trong một gia đình... Con người không chỉ được cứu rỗi
một cách lẻ loi, nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để
sinh ra, để lớn lên và thành toàn... Tại Nagiaréth, Chúa đã lớn lên trong ân
sủng và dáng vóc. Chúa đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc,
học viết và ngâm nga từng câu kinh thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử
dụng từng dụng cụ trong xưởng mộc của Thánh Giuse.
Trong ba năm
sống đời công khai, ngôn ngữ vàcách suy nghĩ của Chúa phản ánh phần nào sự giáo
dục mà Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.
Xin Chúa
thánh hóa tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được
trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết
vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các
ngài... Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp
nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu được trao phó cho
công việc trông coi một chị nữ tu già bị bất toại. Người nữ tu già này nổi
tiếng là một người khó tính trong nhà dòng. Têrêxa phải dìu bà đi từng bước.
Một chút thiếu sót cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Bà không một lần nói lên
một tiếng cám ơn. Thế nhưng Têrêxa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu
đựng tất cả vì thánh nữ yêu mến Chúa và vì Tình Yêu Chúa, thánh nữ yêu mến
người nữ tu già đáng thương này.
Tình yêu đối với Chúa thường không tỏ hiện bên
ngoài. Dấu hiệu bên ngoài của tình yêu mến đối với Chúa chính là yêu mến tha
nhân. Và chúng ta chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân không những bằng lời nói
nhưng nhất là bằng hành động, bằng sự nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông.
Sách
Lẽ Sống Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Trong tập thơ có tựa đề
"Nhật ký", nữ thi sĩ công giáo Pháp là Marie Noel đã tưởng tượng ra
một mẩu chuyện như sau: Hôm đó là ngày cuối năm. Từ trên Thiên Quốc nhìn xuống
dương trần, Chúa thấy dân chúng đổ xô về một ngôi nhà thờ đổ nát, không có
chuông, cũng chẳng có tháp chuông. Vị linh mục già đành phải khua mõ vào bất cứ
đồ vật nào có thể gây ra tiếng vang để giục giã dân chúng đến giáo đường đọc
Kinh "Te Deum" ngợi khen Cúa nhân ngày cuối năm.
Trời mưa lạnh như cắt. Vậy
mà, từ khắp nơi trong xóm giáo, người ta vẫn đổ xô về ngôi giáo đường. Chúa
theo dõi từng cử động một của một người đàn bà đơn độc mà ngôi nhà vừa bị thiêu
rụi trong một trận hỏa hoạn. Chúa lại nhìn thấy một thiếu phụ mà cách đó không
lâu bọn Đức Quốc Xã đã tước đoạt mọi tài sản. Một người đàn bà khác, mà chồng
đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến đến nhà thờ. Có cả thiếu phụ mất con mà
người ta không tìm ra tung tích. Có cả người đàn ông mà vợ và con bị chôn vùi
dưới đống gạch vụn... Còn bao nhiêu người khốn khổ khác nữa. Họ không biết đi
đâu, họ không có gì để ăn bởi vì quân thù đã đốt phá và cướp đi tất cả những
lương thực dự trữ.
Vậy mà những người khốn khổ
ấy có mặt đày đủ trong ngôi giáo đường. Có một vài tiếng khóc. Nhưng tất cả đều
cất tiếng hát bài "Te Deum" ngợi khen Chúa trong ngày cuối năm vì
những ơn huệ Ngài ban trong năm qua.
Nhìn thấy
cảnh tượng ấy cũng như lắng nghe lời ca ngợi của những con người khốn khổ,
Thiên Chúa vô cùng cảm động. Ngài nói với các Thiên Thần như sau: "Quả thực,
quả thực, Ta bảo các ngươi: con người là loài thụ tạo thánh thiện. Các ngươi
hãy nhìn xuống đám người đáng thương kia. Cách đây 12 tháng, họ đã phó dâng cho
Ta cả năm để được hạnh phúc, an khang. Vậy mà tai ương và thảm sầu đã xảy đến
với họ... Họ đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh đã đè bẹp họ. Họ đã xin
lương thực hằng ngày, nhưng họ chỉ toàn gặp là đói khát. Họ đã phó dâng cho ta
gia đình, người thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc, gia đình và người thân
của họ lại bị xâu xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý do riêng của Ta... Ta
không thể thanh tẩy thế giới mà không thể thử thách nó như thời Noe. Nhưng đây
là công việc của một Thiên Chúa, không ai có thể hiểu được việc Thiên Chúa làm.
Nhưng con người lại phải gánh chịu mọi sự. Vậy mà họ vẫn tiếp tục ngợi khen và
cảm tạ Ta cứ như Ta đã bảo vệ họ trong từng phút giây của cuộc sống họ... Quả
thực, lòng tin của họ lớn lao... Các ngươi có nghe họ hát "Thánh,
thánh" với tất cả trang trọng không? Hỡi các Thiên Thần và các Thánh, nào
các ngươi hãy hát lên một bài ca để tôn vinh những ai, mặc dù gặp gian lao khốn
khó, vẫn lên tiếng tôn vinh Ta".
Nói xong,
Thiên Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất lên bài ca "Ngợi khen con
người".
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài
không thể không say mê con người, Ngài không thể không chung thủy với con
người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc sống hiện tại và những khắc khoải lo âu
cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục dâng trọn niềm tín thác cho Thiên Chúa.
Tin tưởng ở
tình yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người. Tình người dù có bội bạc,
mỗi một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu, cũng vẫn còn chất chứa trong
đáy thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời phản ảnh chính tình yêu của Thiên Chúa.
Đáp lại với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với những thấp hèn đê tiện, người
có niềm tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người hãy giữ mãi nụ cười của cảm
thông, tha thứ và yêu thương.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Vào khoảng
năm 1850, họa sĩ tài ba của Hoa Kỳ là James McNeil Whisler đang còn là một
thanh niên đầy nhiệt huyết. Mặc dù có tâm hồn nghệ sĩ, Whisler cũng đăng ký vào
trường đại học quân sự West Point.
Người ta kể
lại rằng khi giáo sư ra đề tài vẽ về một chiếc cầu, dĩ nhiên, các sinh viên
phải hiểu đây là một chiếc cầu cần được thiết kế trong mục tiêu quân sự. Thế
nhưng, tâm hồn nghệ sĩ của Whisler đã không đếm xỉa gì đến khía cạnh quân sự.
Anh vẽ một chiếc cầu thơ mộng bắc qua một mỏm núi thơ mộng. Dọc theo hai bên bờ
sông là một tấm thảm cỏ xanh tươi. Nhưng thơ mộng hơn nữa là có hai đứa bé đứng
câu cá trên chiếc cầu ấy.
Ông giáo sư
cầu cóng không ưng ý chút nào, nên đã ra lệnh cho anh phải bôi đi hình ảnh của
hai đứa bé. Viên sĩ quan bèn di chuyển hai cậu bé từ chiếc cầu xuống thảm cỏ
bên bờ sông. Lần này, ông giáo sư lại càng giận giữ hơn. Ông quát tháo ầm ĩ:
"Tôi đã bảo anh phải cất chúng ra khỏi bức tranh".
Nhưng con người có tâm hồn nghệ sĩ xem chừng như không thể vẽ cảnh
thiên nhiên mà thiếu bóng dáng của con người. Không được sáng tác theo ý mình
muốn, Whisler bèn vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ dọc theo dòng sông và muốn ông
giáo sư hiểu ngầm rằng anh đã chôn hai cậu bé trong hai cái mộ ấy.
Chiếc cầu
được bắc qua dòng sông là để nối liền hai bờ sông và chiếc cầu nối liền hai bờ
sông là để cho con người ở hai bên bờ sông được liên lạc với nhau. Thiếu sự đi
lại của con người thì chiếc cầu trở thành vô nghĩa.
Chúa Giêsu là chiếc cầu nối
liền Trời cao và Đất thấp. Nơi Ngài, con người và Thiên Chúa gặp gỡ nhau. Chỉ
trên chiếc cầu của Đức Kitô con người mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ
nhau.
Ngài sinh ra trong một gia
đình, Ngài lớn lên trong một gia đình. Ngài đến để quy tụ tất cả nhân loại
thành một gia đình. Con đường cứu rỗi của Ngài là con đường mở rộng cho mọi
người cùng nắm tay đi với nhau. Chiếc cầu nối liền Thiên Chúa và con người là
chiếc cầu của gặp gỡ, của cảm thông, của yêu thương. Chúng ta chỉ có thể đi về
cõi phúc trên chiếc cầu của gặp gỡ, của yêu thương ấy.
Sách Lẽ Sống, Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Những người
thổ dân Nam Phi thường đề cao sự tha thứ bằng câu chuyện sau đây:
Có hai người
thổ dân rất thù ghét nhau. Một ngày kia, một trong hai người gặp cô gái nhỏ của
kẻ thù mình trong rừng. Hắn đã bắt lấy cô gái và chặt đứt hai hai ngón tay của
cô bé. Cô bé vừa chạy về vừa khóc lóc đau đớn, còn tên hung thủ thì vừa đi vừa
đắc trí hô lớn: "Ta đã trả thù được rồi".
Mười mấy năm
sau, cô bé đáng thương ấy đã lớn lên rồi có gia đình. Một hôm, có một người ăn
xin đến gõ cửa nhà cô. Cô nhận ra tức khắc người hành khất chính là kẻ đã chặt
tay cô cách đây mười mấy năm. Không một chút oán hờn, không một lời trả đũa, cô
vội vàng vào nhà và mang thức ăn ra hầu hạ cho kẻ đã từng hành hạ mình. Khi
người hành khất đã ăn no rồi, người đàn bà liền đưa bàn tay cụt mất hai ngón
cho ông ta xem và nói: "Tôi cũng đã trả được thù rồi".
"Lấy ân trả oán":
đó phải là phương châm hành động của người Kitô chúng ta. Không có cách trả thù
nào cao quý hơn bằng yêu thương, tha thứ cho chính kẻ thù. Nói như thánh
Phaolô, chúng ta không mắc nợ với nhau điều gì ngoài tình thương mến.
Chỉ có tình
thương, chỉ có lòng tha thứ mới có thể tiêu diệt được hận thù. Lấy hận thù để
tiêu diệt hận thù, lấy bạo động để tiêu diệt bạo động: con người chỉ đổ thêm
dầu vào hận thù và bạo động mà thôi.
Cuộc cách
mạng bạo động và đẫm máu nào cũng chỉ mang lại tang thương, chết chóc và không
biết bao nhiêu hệ lụy khổ đau khác.
Chỉ có một
cuộc cách mạng duy nhất có thể cứu vãn được nhân loại: đó là cuộc cách mạng mà
Chúa Giêsu đã đề ra. Chỉ có cuộc cách mạng tình thương ấy mới có thể được tiêu
diệt được hận thù. Đó là cuộc cách mạng mà người Kitô chúng ta cần theo đuổi
mỗi ngày. Thay vì tiêu diệt kẻ thù, chúng ta hãy tiêu diệt chính sự hận thù
trong tâm hồn chúng ta.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
12. Tôi Biết Chạy
Đến Với Ai ?
Sau khi phản
bội Chúa bằng một cái hôn, Giuda cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng
mình có thể được tha thứ nữa. Ông cầm 30 đồng bạc là giá của sự phản bội và đi
vào Đền thờ để trả lại cho các thượng tế và kỳ lão. Sau đó, ông ra ngoài lấy
dây thắt cổ tự vận.
Câu chuyện
ấy đã được xen vào vở tuồng thương khó nổi tiếng của dân làng Oberammergau bên
Đức. Cứ 10 năm một lần, theo một lời thề hứa mà ông cha đã để lại từ mấy trăm
năm qua, người dân làng diễn ra cuộc tử nạn của Chúa giêsu. Vở kịch thu hút khán
giả từ khắp nơi trên thế giới.
Người ta kể lại rằng lần kia, một em bé gái 7 tuổi ngồi cạnh mẹ để xem vở
tuồng. Người đóng vai Giuda, trong cơn thất vọng não nề đã thốt lên: "Tôi
biết đi đến với ai bây giờ? Tôi đã phản bội Thầy tôi. Thế là hết! Tô không biết
phải chạy đến với ai nữa".
Em bé ngồi
bên cạnh mẹ cảm thông cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng. Em muốn tìm
cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em bèn quay sang mẹ và nói lớn đến độ
tất cả mọi khán thính giả có mặt trong hội trường đều nghe được: "Má ơi,
sao ông ta không chạy đến với Mẹ Maria?".
Chúa Giêsu
cũng có một người Mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ
ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối Mẹ, những lần sà
vào lòng Mẹ, những lần mếu máo khi lạc mất Mẹ, hay những lần vòi vĩnh Mẹ... hẳn
phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm của bản
thân ấy đã trở thành bài học về hồn nhiên trong trắng, tin tưởng, phó thác của
tuổi thơ mà Chúa Giêsu luôn đề ra cho chúng ta khi Ngài nói: "Nếu các
ngươi không nên giống như trẻ nhỏ, các ngươi không được vào nước Trời".
Tuổi thơ thường gắn liền với mẹ. Còn âm thanh nào bộc phát, tự nhiên, quen
thuộc và êm dịu trên môi của trẻ thơ cho bằng tiếng "Mẹ". Khi vui,
trẻ thơ kêu mẹ, lúc đói, trẻ thơ cũng kêu mẹ. Khi tỉnh thức, trẻ thơ cũng kêu
mẹ, lúc ngái ngủ, trẻ thơ cũng kêu mẹ... Mẹ là tất cả của trẻ thơ.
Mời gọi
chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ để được vào nước Trời, hẳn Chúa Giêsu
cũng muốn nhắn gửi chúng ta cho Mẹ của Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời
cũng có nghĩa là biết chạy đến với Mẹ Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời
cũng có nghĩa là mặc lấy tâm tình của chính Mẹ Ngài, bởi vì còn ai trong trắng,
tin tưởng, phó thác cho bằng Mẹ.
Sách Lẽ Sống, Ban Việt
Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Một vị linh
mục nọ đã có một sáng kiến rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ.
Một buổi sáng Chúa Nhật nọ, dân chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau:
"Một nhân vật trong giáo xứ vừa qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng
thứ Tư tới". Nghe lời loan báo ấy, cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào
cũng muốn biết con người quan trọng ấy là ai.
Đúng ngày
tang lễ, mọi người trong giáo xứ nườm nượp kéo nhau đến nhà thờ. Từ cung thánh
cho đến cuối nhà thờ, không còn một chỗ trống. Người ta đến không phải để cầu
nguyện cho người quá cố cho bằng để nhìn mặt lần cuối cùng con người mà ai cũng
muốn biết.
Sau thánh
lễ, vị linh mục đến mở nắp quan tài để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối
cùng người quá cố. Ai ai cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai
cũng đều ngạc nhiên, bởi vì thay cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn
thấy trong quan tài một tấm gương và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi
người chỉ nhìn thấy dung nhan của mình mà thôi.
Chờ cho mọi
người làm xong nghi thức từ biệt ấy, vị linh mục mới giải thích: "Như anh
chị em đã có thể nhận thấy, tôi đã cho đặt vào trong quan tài một tấm kính. Con
người mà anh chị em nhìn thấy trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi
người trong chúng ta. Vâng, đúng thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần
phải mai táng chính mình... Thánh lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng
ta".
Bắt đầu sứ
mệnh công khai của Ngài bằng cử chỉ dìm mình xuống dòng nước sông Giodan, Chúa
Giêsu muốn loan báo cho mọi người thấy rằng Ngài đã vâng phục Ýù Chúa Cha để đi
vào Cái Chết và nhờ đó cứu rỗi nhân loại. Một cách nào đó, mầu nhiệm của Sự
Chết và Sống lại đã được diễn tả qua việc Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước.
Thiết lập
Phép Rửa như cửa ngõ để đưa chúng ta vào cuộc sống trường sinh, Chúa Giêsu cung
muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài. Dìm mình trong
nước của Phép Rửa, chúng ta khởi đầu cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết.
Sống đối với chung ta có nghĩa là chết: chết cho những khuynh hướng xấu, chết
cho những đam mê xấu, chết cho tội lỗi, chết cho ích kỷ, chết cho hận thù. Cuộc
sống do đó đối với chúng ta cũng là một cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa
rơi xuống đất phải thối đi, cũng thế chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người
cũ tội lỗi của chúng ta.
Đức Ông Phêrô Nguyễn
Văn Tài
Hans
Christian Andersen, văn sĩ Đan Mạch sống vào khoảng cuối thế kỷ 19, là tác giả
của những câu chuyện dạy đời bất hủ. Ông có kể câu chuyện như sau:
Có một đôi
vợ chồng già nọ sống bên nhau rất hạnh phúc. Thật ra người nắm giữ bí quyết
hạnh phúc trong gia đình này chính là người vợ. Lúc nào bà cũng hài lòng về bất
cứ hành động nào của người chồng. Một hôm, người vợ đề nghị với chồng là nên
bán bớt một con bò. Thật ra tất cả tài sản của họ chỉ là đôi bò.
Người chồng
tán thành ý kiến của vợ. Ngay từ sáng sớm, ông dắt bò ra chợ. Nhưng đường dài,
mặt trời mỗi lúc một chói chang. Con bò già lại không thể bước nhanh. Do đó khi
thấy một người nông dân khác cũng đang dắt heo ra chợ bán, người chồng mới có ý
nghĩ đem đổi bò lấy con heo. May ra con heo có thể đi nhanh hơn không?
Đổi được con
heo và đi được một quãng đường, người chồng lại cảm thấy không thoải mái chút
nào. Con heo cứ muốn đi theo hướng của nó. Vừa bực tức với con heo, ông lại
thấy một người nhà quê khác cũng đang dắt dê ra tỉnh. Ông nghĩ rằng dê có thể
là con vật ít cồng kềnh hơn con heo, cho nên ông mới nấn ná đến người chủ dê để
đề nghị hoán đổi.
Đổi được dê,
người đàn ông như cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Nhưng chỉ trong vài phút đồng
hồ, ông mới khám được cái tính bất thường của loài dê. Nó chạy bên này, nhảy
bên kia, nó đưa sừng húc khắp mọi nơi... Giữa lúc ông ngán ngẩm với con dê, thì
bỗng đâu một người nhà quê khác tiến lại gần ông với cả một đàn ngỗng. Con
ngỗng dù sao cũng ít cồng kềnh hơn con dê. Nghĩ vậy cho nên ông mang con dê đến
đổi lấy một chú ngỗng trắng. Ôm lấy chú ngỗng vào lòng, người đàn ông cảm thấy
thoải mái hơn bao giờ hết. Ông tin chắc là mình sẽ đến chợ sớm hơn. Nhưng chưa
đến chợ, thì ông lại thấy một người buôn gà. So sánh gà với ngỗng, dĩ nhiên gà
phải nhẹ hơn... Tính toán mãi, cuối cùng, ông đã đem chú ngỗng đến đổi lấy một
con gà.
Mặt trời mỗi
lúc một lên cao. Cơn khát như muốn đốt cháy cổ họng ông. Bụng ông lại trống
rỗng. Vừa thấy một quán ăn bên vệ đường, người đàn ông không còn cầm được cơn
cám dỗ. Ông đành phải đem con gà bán đi với giá một đồng bạc. Một đồng này vừa
đủ cho một bữa ăn trưa cộng với một ly bia.
Những người
đàn ông trong quán ăn biết chuyện mới tỏ ra ái ngại cho giây phút ông phải đối
đầu với người vợ. Thế nhưng, con người luôn luôn được vợ hài lòng ấy vẫn tỏ ra
bình thản. Ông tin tưởng rằng vợ ông sẽ không boa giờ trách móc ông. Một người
đàn ông có máu cờ bạc, không tin ở thái độ của bà vợ ông, cho nên mới đề nghị
đánh cá. Ông ta đưa ra hai mươi đồng và đi theo người đàn ông về đến nhà. Ôn
núp một nơi kín đáo để theo dõi phản ứng của người vợ.
Quả thực,
người đàn ông bắt đầu báo cáo lại cho vợ từng chi tiết của những cuộc trao đổi
của ông. Cứ mỗi lần người đàn ông kể lại một cuộc đổi chác của mình, người vợ
đều tỏ ra hài lòng. Khi người đàn ông kể đến chuyện ông bán con gà được một
đồng và vào quán ăn trưa, người vợ mới mỉm cười thốt lên như sau: "Tạ ơn
Chúa, cũng may là mình bán được con gà. Như vậy là mình có thể ngủ yên mà không
sợ tiếng gà gáy phá giấc. Điều quan trọng đối với tôi là biết rằng mình thỏa
mãn là được".
Người chồng
thắng được vụ cá cuộc. Ông được hai mươi đồng, số tiền còn lớn hơn cả giá bán
con bò.
Hãy đón nhận
từng giây phút hiện tại với hân hoan, cảm mến. Hãy làm công việc trong phút
giây hiện tại như là công việc quan trọng nhất. Hãy đón tiếp người trước mặt
như một người quan trọng nhất. Hãy chấp nhận mọi người với cảm thông, tha thứ
và lạc quan. Hãy chấp nhận chính bản thân với sự bằng lòng, thoải mái: đó là
tất cả bí quyết của hạnh phúc mà chúng ta cần phải nắm lấy.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Từ khi hệ
thống truyền hình qua vệ tinh, qua Internet phổ biến khắp hoàn cầu, hầu như
khắp nơi đều nhận được tin tức với hình ảnh nhanh chóng ngay trong ngày những
gì xảy ra bất cứ ở một nước nào trên khắp thế giới. Như cuộc đánh nhau, đặt bom
nổ đẫm máu ở Palestina, ở Israel, ở Bắc Aùi nhĩ Lan, vụ động đất lụt lội ở
Việtnam, ở Trung quốc, đám cháy rừng ở bên Hoa Kỳ, cuộc tranh tài thể thao ở Úc
châu, ở Bắc Kinh...đều được tường thuật đầy đủ với hình ảnh tại hiện trường
sống động và truyền đi khắp địa cầu.
Thế giới
càng ngày càng thu nhỏ khoảng cách giữa các nước lại với nhau qua màn ảnh máy
truyền hình, máy vi tính.
Thế giới này
không chỉ có một dân tộc, một châu lục hay một đất nước nào, nhưng là một hành
tinh vĩ đại gồm đủ mọi sắc dân nước khắp năm châu bốn bể. Địa cầu nơi chúng ta
sinh sống có nhiều sắc dân với nhiều phong tục tập quán, nhiều nền văn hoá và
nhiều niềm tin tín ngưỡng khác nhau.
Niềm tin đạo
công giáo chúng ta còn có một hình ảnh khác nữa về một nước trong công trình
sáng tạo của Thiên Chúa. Đó là nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ở đâu? Và những
ai là công dân trong nước Thiên Chúa? Trong nước Thiên Chúa người công dân có
cần tấm thẻ căn cước không?
Câu hỏi này
người ta cũng đã đặt ra cho Chúa Giêsu khi xưa. Ngài nói ngay: nước Thiên Chúa
dành cho hết mọi người khắp bốn phương trời bất kể dân tộc nào: “ Toàn dân
thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa” (Lc 13,29).
Ngày nay, ta
cũng đều bắt gặp mọi sắc dân, mọi mầu da chủng tộc hầu như ở khắp mọi nẻo đường
trên thế giới, nhất là nơi các thành phố lớn như Paris, London, Newyork, Wien,
Zuerich, Bắc Kinh, Berlin, Athen, Roma... Và ngay trong Hội Thánh công giáo
cũng vậy: Catholica phổ quát cho hết mọi dân tộc vào mọi thời đại. Thiên Chúa
tạo dựng vũ trụ cùng con người và mời gọi họ vào trong nước của Ngài.
Công dân của
các quốc gia trên thế giới xưa nay đều có tấm thẻ căn cước, để chứng minh mình
thuộc về nước đó. Nhưng công dân trong nước Thiên Chúa không có tờ chứng minh
thư, tấm thẻ căn cước hay chứng minh nhân dân với tên tuổi hình ảnh của mình
như thế.
Không, những
người công dân trong nước này chỉ cần có niềm tin, tình yêu vào Đấng là chủ đời
sống, là chủ vạn vật. Đó là tấm thẻ căn cước của nước Thiên Chúa.
Cuộc sống
của con người có khởi đầu và ngày cùng tận. Khởi đầu của cuộc sống bắt nguồn từ
Đấng đó và ngày cùng tận đời sống, tất cả trở về với Ngài. Và trong quãng đừơng
đời sống, những người công dân trong nứơc đó không phaỉ luỉ thủi một mình với
thất vọng lo âu bấp bênh. Không, Thiên Chúa, Đấng sinh thành đời sống luôn cùng
đồng hành với, như Ngài đã hứa: “ Con đừng sợ. Cha cứu độ con. Cha biết tên
con, vì con là con Cha. Cha hằng ở bên con.” (Isaia 43, 1-5) .
Qua ngọn lửa
đang thiêu cháy bụi gai Thiên Chúa nói với ông Maisen: Cha là người hằng đồng
hành với con. ( Xh 3, 14)
Và sau này
trước khi về trời, Chúa Giêsu bảo đảm với các Tông đồ và những công dân nước
Thiên Chúa: Cha sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế. (Mt.28, 20)
Trên tấm căn
cước của các quốc gia thông thường có những ám hiệu được ghi vào máy vi tính
những chặng đường họ đã trải qua, những việc họ làm, để dễ dàng cho việc điều
tra theo dõi. Nhưng những điều đó không có trên tấm thẻ căn cước của nước Thiên
Chúa.
Tình liên
đới với nhau, sự tha thứ làm hoà và cùng nhau xây dựng hoà bình, lòng nhân ái
ngay trong gia đình, ngay trong môi trường sinh sống là những điểm để nhận ra
họ là công dân thuộc về nước Thiên Chúa.
Nước Thiên
Chúa khởi sự ngay từ trong cuộc sống hằng ngày giữa con người với nhau trên mặt
đất này.
Niềm tin vào
Thiên Chúa và cuộc sống tình người với nhau là tấm thẻ căn cước của nước Thiên
Chúa.
Lm. Nguyễn ngọc
Long.///
Trần Bình
vốn là một mưu thần đời nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn Sở
về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. Người lái đò đưa khách qua
lại vốn là một tay cướp giật, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là một
người giàu có, định ra tay hãm hại để thâu đoạt tiền của. Biết ý định của tên
lái đò, trước khi xuống đò, Trần Bình đã cởi bỏ hết quần áo. Mình trần như
nhộng, Trần Bình lại đến xin tên lái đò cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một
người trần truồng như thế không phải là một người giàu có, tên lái đò đã để yên
cho Trần Bình. Thế là ông thoát nạn.
Đôi khi phải chấp nhận một vài nhục nhã, cắt bỏ đi một phần của cải hay cả một
phần thân thể, chúng ta mới có thể thoát khỏi hiểm nguy đe dọa đến tính mạng.
Trong bất cứ một cuộc di tản nào, để bảo đảm cho mạng sống, đôi khi người ta
phải bỏ lại đằng sau nhà cửa, ruộng vườn, tài sản và ngay cả bà con thân thuộc
của mình. Chúng ta có một sự sống giá trị gấp bội phần sự sống trên trần gian
này. Sự sống ấy đòi hỏi chúng ta phải hy sinh tất cả mọi sự trong cuộc sống tạm
bợ này. Lời sau đây của Chúa Giêsu đã đánh động không biết bao nhiêu người
trong lịch sử nhân loại: "Lời lãi cả thế gian để được ích gì nếu mất linh
hồn mình?"
Sách Lẽ Sống Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic
News(19/08/2001).
Trong tác phẩm Đại Học Máu, văn sĩ Hà Thúc Sinh cũng giống như văn hào Nga
Solzenitzyn ghi lại thân phận tù đày của các tù nhân Việt Nam trong các trại
học tập. Nhưng giữa những đọa đày cùng cực của kiếp người, Hà Thúc Sinh vẫn có
cái nhìn lạc quan về thân phận con người. Con người bị bạo hành ở những mức độ
vô nhân nhất mà vẫn khôi hài, cười đùa, bỡn cợt được.
Trong tác phẩm đầu tay của ông có tựa đề "Hai chị em", Hà Thúc Sinh
đã nêu bật được hình ảnh con người tranh đấu lạc quan, chẳng còn biết gì để sợ,
sẵn sàng kịch liệt chống lại định mệnh để tự thắng và tự cứu mình... Hai chị em
Lan và Trực bị đắm tàu trong một cuộc vượt biên đầy nguy hiểm. Là hai người duy
nhất còn sống sót, họ trôi dạt và tấp vào một hoang đảo giữa Thái Bình Dương.
Trong nguyên một tuần lễ, tác giả đề cao sức chịu đựng, tinh thần tháo vát của
hai chị em. Sau một tuần lễ chịu đựng, người chị ngã bệnh, Trực bèn kết bè để
ra khơi mong tìm lại được chiếc ghe đắm trên đó còn chút ít lương thực, thuốc
men và quần áo. Khi ra đi, anh đã nhóm đã nhóm được một ngọn lửa trên núi cao
vừa làm dấu hiệu để kêu gọi sự chú ý của thuyền bè qua lại trong vùng, vừa lấy
đó như ngọn hải đăng để còn có thể quay lại đảo... Nhưng anh đã ra đi và không
bao giờ trở lại hoang đảo... Sóng to gió lớn có lẽ đã chôn vùi anh giữa lòng
đại dương. Người chị tất tả chạy ra bãi cát giữa cơn giông bão để réo gọi tên
em.
Tác giả đã kết thúc câu chuyện như sau: "Nếu có thuyền bè chạy qua eo
biển, một vùng hoang đảo trên Thái Bình Dương những ngày biển lặng sau đó, chú
mục, người ta có thể nhìn thấy một ngọn lửa. Ngịn lửa ấy đốt bập bùng trên một
triền núi, khi lớn, khi nhỏ, khi tỏ, khi mờ. Nhưng có điều chắc chắn là nó chưa
hề tắt".
Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu chống lại với những khắc
nghiệt của thiên nhiên, chống lại không biết bao nhiêu kẻ thù, chống lại với
chính bản thân đầy ươn hèn, xấu xa.
Nhưng người Kitô hữu không phải là một thứ anh hùng khắc kỷ, tự chiến đấu một
mình và tin ở sức mạnh vô song của ý chí. Chúa Giêsu đã chiến đấu, nhưng Ngài
không là một anh hùng của một ý chí sắt đá. Sức mạnh duy nhất của Ngài chính là
Thiên Chúa. Lương thực của Ngài chính là Thánh ý Chúa Cha. Khí giới của Ngài là
sự kết hiệp với Chúa Cha.
Qua ba cơn cám dỗ, Chúa Giêsu đã luôn luôn qui chiếu vào Lời Chúa. Lời của Chúa
là khí giới, là thuẫn đỡ của Ngài.
Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính là Đức Kitô sống trong tôi. Đó
phải là ý lực sống của chúng ta. Chúng ta cũng hãy nói: tôi chiến đấu, nhưng
không phải là tôi chiến đấu, mà chính Đức Kitô chiến đấu trong tôi. Sức mạnh
của Kitô giáo, bản chất của Kitô giáo không phải là tổng số của các tín hữu, mà
chính là Sự Sống của Đức Kitô đang châu lưu trong từng người tín hữu.
Đức Ông Phêrô
Nguyễn Văn Tài
VietCatholic
News(14/08/2001).
Trong một chương trình truyền hình Mỹ, người ta phỏng vấn một cụ già, tuổi hạc
rất cao. Người ta đặt câu hỏi như sau: "Thưa cụ, chắc cụ có một bí quyết
đặc biệt để được hạnh phúc?"
Cụ già trả lời một cách đơn sơ như sau: "Không, tôi chẳng có bí quyết nào
gọi là đặc biệt cả. Trái lại, nó rất đơn giản như chiếc mũi trên mặt ông
vậy!". Cụ già giải thích như sau: "Mỗi buổi sáng mai, lúc thức dậy,
tôi có hai điều chọn lựa, một là sống hạnh phúc, hai là sống bất hạnh. Oâng
nghĩ xem, tôi sẽ chọn điều nào? Dĩ nhiên tôi phải chọn được hạnh phúc".
Câu trả lời trên đây của cụ già thật đơn giản. Abraham Lincol đã nói như sau:
"Con người sở dĩ có được hạnh phúc, sung sướng hay không cũng tại lòng
tưởng nghĩ như vậy". Bạn có thể hạnh phúc, nếu bạn muốn như thế. Đó là điều
dễ thực hiện nhất trên đời. Bạn hãy chọn lựa sự bất hạnh. Đi đến đâu bạn cũng
than thân trách phận, chắc chắn bạn sẽ được như ý. Nhưng nếu lúc nào bạn cũng
tự nhủ rằng: "Mọi việc đều tốt đẹp, đời vẫn đẹp và đáng sống. Tôi chọn
sống hạnh phúc", thì chắc chắn bạn sẽ được điều bạn muốn.
Trẻ con rành về nghệ thuật sống hạnh phúc hơn người lớn. Trẻ em mang vào giấc
ngủ của mình vô số những mộng mơ và chúng cũng thức giấc với vô số những mộng
ước, trong đó cơ bản nhất vẫn là được vui chơi.
Người lớn mà có được một tinh thần như trẻ thơ lúc tráng niên và vào tuổi già,
thì quả là một thiên tài, vì họ nắm được niềm hạnh phúc thật trong tâm hồn mà
Chúa đã dành để cho tuổi thanh xuân. Chúa Giêsu quả là tế nhị khi Ngài nói với
chúng ta rằng cần phải có tinh thần trẻ thơ thì mới vào được Nước Trời. Nước
Trời là gì nếu không phải là được sống hoan lạc trong tình yêu thương của Chúa?
Đức Ông Phêrô
Nguyễn Văn Tài
VietCatholic
News(16/08/2001).
Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà
thờ chính tòa Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại
thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử tọa như sau: "Ai trong anh
chị em có thể nói cho tôi biết Đức Mẹ là ai?"
Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời
yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: "Thưa Cha, Đức Mẹ là Mẹ Thiên
Chúa". Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: "Đúng thế, Đức Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu
của Mẹ Maria". Liền sau đó, cử tọa liền kể ra tất cả những tước hiệu của
Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Đàng, Mẹ là Đấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Đấng phù trợ
các tín hữu, Mẹ là Đấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v...
Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Đức Maria, thánh Gioan
Bosco mỉm cười nóitiếp: "Đức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể
ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn noid thêm về Đức maria...".
Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: "Tôi xin
được nói với anh chị em Đức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng
ta. Đó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể
gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng
ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Đàng không có vị thánh nào yêu thương
chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria...".
Chính lúc Đức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long
trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho
Mẹ.
Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của
những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Đức Maria mới sinh hạ chúng
ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp
thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự
độc ác tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa
Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình
thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người trà đạp
người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác
của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng
chiến đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp của Đức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung:
đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày
xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau,
ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang
chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
Đức Ông Phêrô
Nguyễn Văn Tài
VietCatholic
News(17/08/2001). Một vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng
cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị
tiền bối.
Ông quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi,
bình thường như mọi người.
Nhưng đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước
của ông. Biết ông đang toan tính bỏ cuộc để trở lại đô thị, Thiên Chúa bèn sai
một thiên thần đến với ông. Vị sứ thần đã nói với ông như sau: "Ngài đang
toan tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ diệu nào hơn chính
cuộc sống của ngươi không? Ai đã ban cho ngươi sức mạnh để có thể cầm cự được
trong nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua? Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi
đã dùng trong thời gian qua mà không hề gây nguy hại cho ngươi? Ngươi lại đây
và xin Chúa ban cho ngươi thêm lòng kiên nhượng...".
Được lời của vị sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc
sống tu trì của ông với niềm tin vững rằng mỗi một phút giây qua đi trong cuộc
sống là một phép lạ mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông.
"Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ". Giáo Hội mượn lời Kinh
Thánh này để mời gọi chúng ta sống một cách sung mãn giây phút hiện tại. Mỗi
một giây phút hiện tại là một hồng ân cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục biến mỗi
phút giây của cuộc sống chúng ta thành một phép lạ.
Không là phép lạ sao tim của chúng ta vẫn tiếp tục đập, mũi chúng ta vẫn tiếp
tục hít thở! Còn gì kỳ diệu bằng chính sự sống mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục trao
ban cho chúng ta. Còn gì kỳ diệu bằng niềm tin Ngài đã trao ban để chúng ta
tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành này.
Chúng ta vẫn thường nói: ngạc nhiên là khởi đầu của khám phá! Nếu tất cả những
khám phá của khoa học đều bắt nguồn từ những câu hỏi mà con người tự đặt ra khi
nhìn ngắm vũ trụ, thì sự ngây ngất trước những kỳ công của sáng tạo, trước cuộc
sống, trước tình người cũng phải là động lực giúp người tín hữu Kitô chúng ta
thấy được, cảm mến được sự hiện diện và tác động kỳ diệu của Thiên Chúa.
Cái nhìn ấy sẽ giúp chúng ta thấy được giá trị của những công việc âm thầm từng
ngày của chúng ta. Cái nhìn ấy sẽ mang lại cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục
phấn đấu khi phải đương đầu với bệnh tật, với thử thách, với mất mát trong cuộc
sống. Một Thiên Chúa luôn làm những kỳ diệu cũng chính là Đấng có mặt trong
từng phút giây của cuộc sống chúng ta để đem lại cho chúng ta những điều thiện
hảo đôi khi vượt quá khỏi cái nhìn nông cạn, sự thẩm định giới hạn của chúng
ta.
Đức Ông Phêrô
Nguyễn Văn Tài
VietCatholic
News(18/08/2001).
Một tác giả nọ có kể một câu chuyện nghụ ngôn như sau: Một nhà trí thức, một
thương gia và một quan đầu tỉnh bị quân cướp tấn công nhân một cuộc hành trình
giữa sa mạc. Sau khi đã đánh đập, bọn cướp bỏ ba người dở sống dở chết bên lề
đường. Tuy nhiên, ba người cũng cố gắng lê bước để tìm đến túp lều của một vị
ẩn sĩ. Sau khi đã băng bó các vết thương cho ba người, vị ẩn sĩ mới nói với họ:
"Túp lều của tôi quá nhỏ. Mùa đông lại sắp đến. Xin mỗi vị cố gắng làm
riêng cho mình một căn lều để trú ẩn".
Nghe thế cả ba người bộ hành đều chống chế, vì họ chỉ muốn tiếp tục cuộc hành
trình mà thôi. Vị ẩn sĩ mới cho họ biết rằng tuyết đã bắt đầu rơi và không còn
một lối thoát nào có thể giúp họ ra khỏi vùng sa mạc.
Nhưng làm thế nào để tự mình có thể dựng cho mình túp lều? Nhà trí thức thì
than phiền rằng mình không có sách vở trong tay. Thương gia thì quả quyết rằng
cả đời mình chỉ biết đếm tiền và giao dịch. Còn viên đầu tỉnh thì cho rằng ông
không thể làm việc gì mà không có thuộc hạ.
Nhưng nước đến trôn rồi thì cũng đành phải nhảy. Không còn lý do gì để khước
từ, cả ba người đành phải bắt tay vào dựng riêng cho mình căn lều. Khi họ vừa
hoàn thành túp lều thì mùa đông cũng vừa đến. Trong suốt mùa đông dài, họ không
còn bít làm gì hơn là ngồi bên bếp lửa để ôn lại chuyện quá khứ... Vị ẩn sĩ
thỉnh thoảng cũng xen vào câu chuyện để góp ý và an ủi ba người bất hạnh.
Đông tàn, xuân đến. Ba người bộ hành muốn lên đường trở về tức khắc. Nhưng lòng
tốt và tình bạn của nhà ẩn sĩ không nỡ để họ ra đi. Thành ra, họ đành ở nán lại
một thời gian để giúp ông cày xới và gieo trồng cũng như chăm sóc gia súc. Và
rồi, khi ánh nắng xuân chiếu tỏa giữa sa mạc, họ cũng ở lại thêm một thời gian
để ngắm cảnh thiên nhiên...
Một ngày nọ, vị ẩn sĩ mới thắc mắc như sau: "Tôi không còn nghe các ông
nói đến sách vở, công việc làm ăn và những người thuộc hạ nữa. Có chuyện gì xảy
ra cho các ông không?". Cả ba người đều giữ thinh lặng. Vị ẩn sĩ mới nói
tiếp: "Tôi xin phép được trả lời cho các ông nhé. Trước kia, các ông có
một ông chủ, ông chủ của các ông có tên là sách vở, là tiền bạc, là các thuộc
hạ. Giờ đây, các ông cũng giống như chó lạc mất chủ, các ông cảm thấy tự do.
Nhưng tôi nghĩ rằng tốt hơn là các ông nên trở về với sách vở, với tiền bạc,
với các thuộc hạ của các ông. Trêu về nhưng không với tư cách là nô lệ nữa. Các
ông hãy là chủ chính mình. Và nếu các ông muốn có một người chủ luôn để cho các
ông tự do hoàn toàn, xin hãy nhớ đến tôi và chủ của tôi".
Lục soát cho kỹ trong lương tâm, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận
rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ.
Có ông chủ mang tên là một ý thức hệ kiên cố đang trói buộc đôi cánh tư tưởng
của chúng ta. Chúng ta bị giam hãm trong vòng nô lệ đến độ không dám đưa chân
bước ra khỏi vòng tròn mà ý thức hệ đó đã vẽ sẵn.
Có ông chủ mang tên là những định kiến đối với cuộc đời, đối với xã hội, đối
với con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, mà chúng ta luôn chụp xuống
trên người khác có lẽ cúng là hàng rào kẽm gai mà chúng ta khoanh tròn xung
quanh chúng ta để mãi mãi chỉ mang lấy một cái nhìn hẹp hòi, ích kỷ.
Có ông chủ là những thói quen xấu mà chúng ta tích lũy như một pháo đài kiên cố
để không muốn rời một bước.
Có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho
mình một bộ mặt đạo đức, nhưng kỳ thực lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của
Chân Lý và tự do đích thực.
Mỗi người chúng ta cần phải rời bỏ những ông chủ quen thuộc để đi vào trong túp
lều nhỏ bé, nhưng chính do chúng ta cố gắng tự tạo ra. Nơi sa mạc của cõi lòng,
chúng ta sẽ gặp được chính Chúa làông chủ đích thực của chúng ta. Có trút bỏ
mọi ràng buộc trong cuộc sống, chúng ta mới cảm thấy được Ngài chiếm ngự và lúc
đó chúng ta mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực mà Chúa Giêsu đã hứa:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Đức Ông Phêrô
Nguyễn Văn Tài
VietCatholic
News(13/08/2001).
Ngày 13/8/1961, sau nhiều cuộc thương thảo vô ích giữa Washington và Mascơva
nhằm giải quyết cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông và Tây, Kruschev, chủ
tịch nhà nước Liên Xô, đã ra lệnh cho xây cất một bức tường ngăn cách Đông và
Tây Bá Linh. Bức tường này được dựng lên không những để đánh dấu sự đọan tuyệt
giữa Đông và Tây, nhưng còn để ngăn chặn làn sóng những người Đông Đức ồ ạt
chạy sang tỵ nạn tại Tây Bá Linh. Khối Đông Âu thì giải thích rằng bức tường
này được dựng lên là để ngăn chặn những người Tây Phương có thể đến Đông Đức để
làm gián điệp. Còn phía Tây Phương thì lại gọi bức tường đó là bức tường ô
nhục... Nhưng dù được gọi dưới danh hiệu nào, dù được xây dựng dưới mục đích
nào, bức tường ngăn cách giữa Đông và Tây Bá Linh vẫn mãi mãi là biểu trưng của
những chia cách giữa con người mà chính con người đã tạo nên...
Có những bức tường ngăn cách về kinh tế, chính trị, chủng tộc, văn hóa do con
người dựng lên... Nhưng cũng có những bức tường vô hình mà mỗi người chúng ta
có thể xây lên để tự ngăn cách với người khác.
Bức tường vô hình đó trước tiên là bức tường của nghi kỵ. Người ta thường xây
kín khu vực của mình ở bằng kín cửa cao tường là bởi vì người ta sợ con mắt dòm
ngó của những người xung quanh. Sự nghi kỵ không những ngăn ngừa người khác đến
với mình, nhưng còn giam hãm chính mình trong cô đơn...
Bức tường vô hình cũng là bức tường của ích kỷ. Người ích kỷ chỉ biết đến thế
giới của mình và khép mắt, bịt tai trước những gì đang xảy ra cho người khác...
Bức tường đó cũng có thể là bức tường của sự bất cảm thông. Kẻ xây tường để bao
bọc mình sẽ không muốn nhìn thấy và thông cảm với những người xung quanh...
Nhưng bức tường nào cũng là một nấm mồ chôn kín mình trong sự cô đơn. Càng bảo
vệ chính mình, con người càng mất mát trong sự hao mòn. Trái lại, càng cởi mở,
càng đến với tha nhân càng triển nở trong nhân cách...
Đức Ông Phêrô
Nguyễn Văn Tài
VietCatholic
News(04/08/2001).
Được biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị
thánh được giáo hội mừng kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về
lời thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để
làm rối loạn những người mạnh mẽ".
Năm 1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.
Sau ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến
xứ Ars. Trên đường đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp
đầu người, giữa lúc không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé
mười tuổi tên Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
Ngày nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ
này, gồm có tượng đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu
Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng,
người ta ghi câu cám ơn của thánh nhân: "Cám ơn con đã chỉ cho cha đường
đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Đàng".
Thực ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em
Anton về quê Trời mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ
khắp nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường
ngay nẻo chính.
Ý thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã
hoạch định cho mình một chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói
gém vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép
Thánh Thể và thi hành việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải
Tội.
Để thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày
cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu
nguyện và giải tội.
Quỳ lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể
hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu
của mỗi người.
Ngoài ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng
11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa
các hối nhân lại với Thiên Chúa.
Cha Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là "Giờ của Thiên
Chúa". Trong suốt 41 năm mục vụ, cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của
con người, những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Để xoa dịu, mỗi sáng
bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão
cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện,
cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo
dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.
Đức Ông Phêrô
Nguyễn Văn Tài
24. Đâu Là Hạnh Phúc Đích Thực
VietCatholic
News(30/09/2001).
Seiji Katagire, một phi công Nhật Bản, đang trên cần lái của chiếc phản lực cơ
DC 8 của hãng hàng không dân sự với 174 hành khách trên tàu. Đang lúc anh chuẩn
bị đáp xuống phi trường Đông Kinh, thì anh bỗng nghe được những âm thanh khủng
khiếp báo hiệu một sự chết chóc rùng rợn. Do phản ứng tự nhiên, anh đã kéo giật
cần lái, khiến cho chiếc máy bay đâm nhào xuống đất gây tử thương cho 24 hành
khách và hàng trăm người bị thương.
Khi cuộc điều tra về tai nạn kết thúc thì anh được gửi ngay đến bệnh viện tâm thần.
Các bác sĩ về khoa thần kinh học cho rằng những tiếng kêu gào khủng khiếp mà
viên phi công đã nghe được, xuất hiện ngay trong cơn ác mộng giữa lúc tỉnh táo
của anh và đó chính là nguyên nhân gây ra tai nạn... Theo các bác sĩ tâm thần,
ác mộng xảy ra trong tình trạng nửa tỉnh nửa mơ là dấu hiệu báo trước một cơn
khủng hoảng tinh thần.
Theo những con số chính xác được tiết lộ từ các bệnh viện thần kinh tại Nhật
Bản, thì con số người mắc bệnh mất trí và thác loạn thần kinh đã gia tăng theo
tỷ lệ thuận với sự phát triển khoa học kỹ thuật và kinh tế tại quốc gia này...
Người Nhật Bản nổi tiếng là người cần cù siêng năng nhất thế giới. Từ em bé mới
tập tễnh cắp sách đến trường với một vị bộ trưởng trong chính phủ, tất cả mọi
người đều lấy sự bon chen và lấy sự phấn đấu làm phương châm của cuộc sống...
Sự cố gắng đó vừa đưa nước Nhật đến chỗ phồn thịnh cũng vừa xô đẩy người dân
đến tình trạng căng thẳng không ngừng. Một chút lơ đễnh có thể đưa đến thất
bại, một chút sơ sót có thể đưa đến chỗ mất công ăn việc làm... Tự ái cá nhân
và tự ái dân tộc khiến người Nhật không chịu đựng được sự thất bại. Một lần thi
trượt có thể xô ngã không biết bao nhiêu học sinh Nhật đến chỗ tự vận.
Nhật Bản là quốc gia được coi là mạnh nhất Á Châu và là nước một trong những kỹ
thuật cao nhất thế giới. Nhưng chúng ta hãy tự hỏi: liệu sự giàu có phồn thịnh
đó có đem lại cho con người hạnh phúc hay không?
Hạnh phúc là một cái gì vô cùng tương đối... Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ
ruột.
Chúng ta hãy thử so sánh niềm vui của các trẻ em thuộc hai xã hội khác nhau.
Trong một gia đình mà cơm trắng được coi như một thứ xa xỉ phẩm, thì chắc chắn
một ổ bánh mì tây sẽ tạo cho các em bé trong gia đình nghèo một niềm vui gấp
nghìn lần niềm vui của những em bé suốt đời sống trên nhung lụa và ăn toàn cao
lương mỹ vị.
Một chiếc áo mới mỗi năm chỉ được mặc một lần của em bé nhà nghèo có lẽ sẽ làm
cho em bé đó vui hơn tất cả những em bé suốt đời chỉ biết có lụa là gấm vóc.
Của cải vật chất là một điều kiện cần thiết để cho con người được sống xứng với
phẩm giá con người. Những phương tiện kỹ thuật giúp con người phát triển nhiều
hơn trong nhân cách. Sự sung túc về vật chất phải đem lại sự phát triển nhân
bản và tinh thần. Có hiều hơn để nên người nhiều hơn: đó là khẩu hiệu người ta
thường đề ra để kêu gọi giúp đỡ các nước kém mở mang... Tuy nhiên, tự nó, của
cải vật chất, sự giàu có, những phương tiện văn minh tiến bộ không phải là cùng
đích của con người.
Người Kitô luôn thức tỉnh để đánh giá đúng những phương tiện vật chất họ đang
sử dụng hay đang tìm cách để đắc thủ. Sự chạy đua với những phương tiện vật
chất không nên làm họ mờ mắt, bán đứng lương tâm của mình.
Hạnh phúc duy nhất và đích thực trong cuộc sống của người Kitô phải là chính
Chúa. Có được hạnh phúc đó trong tâm hồn, chúng ta sẽ đánh giá đúng mức của cải
vật chất và đồng thời sẽ tìm được hạnh phúc ngay trong những điều kiện thiếu
thốn nhất của cuộc sống.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic
News(02/10/2001).
Ngày kia một em bé được theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai người phải đi qua
một thánh đường nguy nga, to lớn. Em bé ngước mắt nhìn thánh đường, chợt em giơ
tay chỉ cho mẹ và nói: "Mẹ xem kìa, những cửa kiếng màu bị đóng đầy bụi,
xem thật dơ bẩn và không đẹp tí nào".
Bà mẹ không nói không rằng về nhận xét của con, nhưng tiếp tục nắm lấy tay dẫn
em tiến vào bên trong nhà thờ. Tại đây, những cửa kiếng bên ngoài xem ra dơ
bẩn, xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc lộng lẫy.
Em bé ngạc nhiên mở to đôi mắt nhìn những cửa kiếng màu diễn tả nhiều hình ảnh
đẹp mắt. Bỗng mắt em dừng lại ở cửa kiếng sau bàn thờ diễn tả hình của bốn
thánh sử viết Phúc Âm trong lúc ánh mặt trời đang chiếu rọi qua. Em bé hỏi mẹ
đó là những thánh nào và được mẹ giải thích vắn tắt về từng vị thánh.
Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ giáo lý viên hỏi các em:
"Này, trong các em có ai trả lời được: một vị thánh là ai?" Trước một
câu hỏi có vẻ không có ý nghĩa, cả lớp giáo lý thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ
dẫn vào bên trong nhà thờ để nhìn ngắm các cửa kiếng giơ tay xin trả lời. Em
nói: "Vị thánh là một người để cho ánh sáng mặt trời chiếu thấu qua".
Kinh nghiệm và câu trả lời của em bé trên có lẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần
nào về cuộc đời của thánh Matthêu, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, trước
và sau khi được Đức Giêsu kêu gọi, như được chính thánh nhân vắn tắt thuật lại
như sau: Đi khỏi đấy, Đức Giêsu thấy một người ngồiở bàn thâu thuế, tên là
Matthêu. Chúa bảo ông rằng: "Hãy theo Ta". Ông Matthêu liền đứng dậy
và đi theo Chúa.
Một tiếng gọi và một hành động đáp trả được diễn tả vắn gọn trong những dòng
trên đây có thể nói được chỉ là bề mặt của trận chiến nội tâm diễn ra từ lâu
nơi ông Matthêu. Một trận chiến giằng co để suy tính thiệt hơn, để cân nhắc cái
lợi và cái bất lợi, để đắn đo nhưng cái mình phải mất với những cái mình sẽ đạt
được, khi ông bỏ mọi sự để theo Chúa:
- Ông phải mất một nghề hái ra bạc nhưng tìm được một số mệnh và sứ mệnh thật
sự có giá trị vĩnh viễn.
- Ông phải mất một gia tài to lớn nhưng tìm lại được danh dự.
- Ông phải mất sự bảo đảm xây dựng trên của cải vật chất để đi theo Đức Giêsu
trong một cuộc hành trình dẫn đến sự sống mà trước đó ông chưa bao giờ mơ ước.
Về phần Đức Giêsu, khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một người hành nghề
thâu thuế, bị các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo
cho giặc, bóc lột đồng bào để làm lợi cho dân ngoại xâm, cũng như bị lên án là
kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội lỗi, Đức
Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng Ngài nhìn sâu
thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã lấy ánh sáng của tình
yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ của Thiên Chúa để chiếu sáng và
chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một người thâu thuế thành một tông đồ và một
thánh sử viết Phúc Âm.
Sách Lẽ Sống Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic
News(01/10/2001).
Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ
nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho
nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho
nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một
chữ.
Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa,
tốt đẹp của văn sĩ.
Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào
viết được cuốn sách một chữ ấy?
Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng... Tất cả
những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công
việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi
ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ
công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả
những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng
ước ao, đáng khát vọng.
Chữ ấy là: Maria, tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô
điểm cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên
vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của
Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người
với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một
người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng
đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn
thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.
Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:
- Chồng bà đã được cứu thoát. Quá ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi:
- Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy? Cha Vianney cắt nghĩa:
- Có Chúa ở giữa chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi
rơi, ông đã làm hòa với Ngài.
- Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại:
- Đó là một ơn của Đức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:
- Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng
trước tượng Đức Mẹ ở bên đường. Đức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?
Hôm nay bắt đầu tháng Mân Côi, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp
dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường
dâng kính mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh truyền tin, nguyện kinh cầu. Nhưng
chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có
nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để
cuộc đời của Đức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được
thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic
News(04/10/2001).
Văn hào Guenter Eich, người Đức, có viết một vở kịch truyền thanh với nhan đề:
"Festamus, người tử đạo", đại ý câu chuyện như sau:
Festamus là một con người lành thánh, đơn sơ hiếm có. Mặc dù sống giữa những
người gian ác, chàng vẫn luôn cư xử đoan chính, giàu lòng thương đối với những
người bần cùng.
Sau khi chết, chàng được lên Thiên Đàng. Ở đó, sau khi làm quen với các vị
thánh, chàng đã bỏ ra mấy ngày liền để đi tìm kiếm cha mẹ, anh em và bạn hữu
ngày xưa. Nhưng chàng không thấy ai. Thánh Phêrô cho biết: Cha mẹ và bạn hữu
chàng ngày xưa đã ăn ở gian ác, nên đã bị giam trong Hỏa Ngục.
Nghe đến đây, Festamus buồn thiu, chàng liền thưa với thánh Phêrô: "Con
không thể ở nơi đây được bao lâu còn có những người đang phải chịu đau khổ dưới
đó".
Chàng liền rời bỏ Thiên Đàng, xuống Hỏa Ngục để thăm cha mẹ, bạn hữu và những
người thân. Chàng làm điều đó với thác tín rằng: Khi một người vô tội từ trời
cao, đến và sống với những người bị kết án, cùng chia sẻ với họ những đau khổ
nhọc nhằn, thì người đó sẽ phá tan được địa ngục và vòng phong tỏa của quỷ
ma...
Câu chuyện tưởng tượng trên đây phần nào muốn đề cao thiện chí của những người
dám hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để chia sẻ số phận đau thương của những
người khác.
Đó là tất cả Mầu Nhiệm Thiên Chúa làm người. Thiên CHúa đa từ trời cao xuống
trần trong thân phận nghèo hèn nhất. Ngài sinh ra trong chuồng bò để thông cảm
với nỗi cơ cực nghèo nàn của những kẻ không nhà không cửa.
Thiên Chúa từ trời cao không muốn ban xá lệnh, ban ơn tha thứ cho tội nhân, mà
trái lại đã thân hành đến ngồi đồng bàn với từng tội nhân. Thiên Chúa không thể
hiện sự cảm thông bằng lời nói suông, mà bằng cả cuộc sống làm người...
Người Việt Nam nào dường như cũng đang sống trong địa ngục của thiếu thốn và
nghèo khổ. Không cần phải đi tìm kiếm, ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được
thế nào là cơ cực, bần cùng. Ai sẽ biến cảnh khốn cùng ấy trở thành Thiên Đàng
của Tình Thương? Mỗi người một ít, nếu ai cũng ra khỏi nỗi khổ của mình và gom
góp lại đóm lửa của yêu thương, chia sẻ, cảm thông, chúng ta sẽ xoa dịu được
phần nào nỗi khổ đau chung mà chúng ta đang trải qua...
Sách Lẽ Sống Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic
News(03/10/2001).
Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận
trong cuộc sống.
Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá
nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người
đó chọn lựa.
Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường.
Người đó tự nhủ trong lòng: "Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức
cẩn thận".
Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá
này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì
quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp
tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất.
Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là
cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng
ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con
đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và
dựng ở tường của cửa hàng".
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập
Giá trong đời sống Đức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ
Ars bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có
những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là
người thông thái".
Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả
nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người
thí mạng vì người mình yêu". Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con
người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu
chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến
cho nhân loại...
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào
Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không
còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý
nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
Sách Lẽ Sống Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
29. Bởi Vì Tôi Rất Yêu Mến Bà!
VietCatholic
News(06/10/2001).
Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêxa thành Calcutta tiến lại gần một người mà người ta
vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một lão bà. Mình phủ
đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ Têrêxa
đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn
bà đáng thương này đang hấp hối... có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên
tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén canh nóng và tràn đầy tình thương
yêu.
Người đàn bà đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêxa bằng một giọng thều
thào:
- "Tại sao bà lại làm như vậy?"
Mẹ Têrêxa trả lời:
- "Bởi vì tôi rất yêu mến bà..."
Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất từ tận đáy
lòng, đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã
bắt đầu xuất hiện.
- "Ôi bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!"
- "Tôi rất yêu mến bà". Mẹ Têrêxa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu
dàng.
- "Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà".
Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêxa và kéo về phía bà
ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ
tuyệt vời nhất trên cõi đời...
Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêxa đã biết nhìn sự suy sụp của tình người,
Mẹ đã biết khám phá ra cái thực thể thiêng liêng Mầu Nhiệm của những con người
nghèo hèn xấu số nhất. Chúng ta cũng hãy luôn nhìn mọi người bằng chính cái
nhìn yêu thương và tôn trọng của chính Chúa đối với mọi người...
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic
News(05/10/2001).
Cách đây vài năm, công ty dược phẩm Hoffman La Roche ở Thụy Sĩ đã tình cờ khám
phá ra một loại thuốc có tính chất làm dã rượu. Các nhà khoa học trong phòng
thí nghiệm của công ty đã đem loại thuốc mới này thí nghiệm trên các chú chuột
đang say túy lúy. Như thuốc tiên, mấy cú chuột đang say bỗng trở nên tỉnh táo
hẳn lại.
Nhiều người nghiện rượu có lẽ đã mừng thầm với phát minh mới này. Nhưng mọi
người đều sửng sốt khi một nhà nghiên cứu của công ty nói trên đã đề nghị hủy
bỏ loại thuốc mới này. Ông giải thích như sau: "Xã hội sẽ tốt hơn nếu
không có loại thuốc này, Bởi vì loại thuốc này sẽ khuyến khích người say uống
nhiều hơn. Những người uống thuốc này sẽ có cảm giác là không bao giờ họ bị đốn
ngã vì chất men... Thật ra, loại thuốc này có đặc tính làm cho dã rượu, chứ
không làm bớt lượng rượu trong máu cũng như các tác hại khác trong hệ thống
thần kinh và trong các bộ phận khác".
Loại thuốc dã rượu trên đây có thể làm cho chúng ta nghĩ đến thứ bình an giả
tạo mà nhiều người đang đi tìm.
Thiên Chúa đã dựng nên con người để sống trong bình an với Ngài. Những buổi
chiều tà khi Thiên Chúa đến trong Vườn Địa Đàng để chuyện vãn với Ađam và Evà:
đó là hình ảnh của một sự kết hiệp thâm sâu giữa con người và Thiên Chúa. Thế
nhưng, con người đãchối bỏ Thiên Chúa và đã cắt đứt mối dây thân tình ấy... Từ
đó, bất an đã trở thành số phận thường tình của con người.
Nhưng bất an không những chỉ là một trừng phạt, bất an là nỗi khao khát mà
Thiên Chúa đã đặt vào lòng người để giúp con người tìm đường quay lại với
Ngài...
Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù sống trong xã hội nào, dường như không ai thoát
khỏi cái lo, cái sợ... Nếu những người Việt Nam đói khổ lo sợ cho ngày mai
không cơm, không áo, thì những người Âu, Mỹ dư dật lại lo sợ trước trăm nghìn
cái đe dọa khác của cuộc sống... Dĩ nhiên, không ai có thể so sánh được đau khổ
của một người nghèo đói, mất tự do với sự bất an của những người giàu có. Nhưng
trong cơ bản, nỗi khổ tâm và bất an nào cũng có một sức nặng riêng của nó.
Dường như mỗi người đều có một thập giá, một nỗi khổ và một ưu tư tỷ lệ với sức
lực của mình...
Chúa Giêsu kêu mời mọi người chúng ta hãy đặt tất cả tin tưởng vào Tình Yêu
quan phòng của Thiên Chúa. Dù có lo lắng đến đâu, chúng ta cũng không thể làm
cho mình cao hơn một chút. Mỗi người có nỗi khổ riêng của mình và mỗi ngày có
nỗi khổ của ngày đó...
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
31. Lời Nói Không Mất Tiền Mua
VietCatholic
News(07/10/2001).
Mahatma Gandhi, người đề xướng chủ trương tranh đấu bất bạo động, đến Phi Châu.
Ông vào dùng bữa trong một quán ăn bình dân. Sau khi dùng bữa, ông trả tiền và
nói với người giúp bàn: "Xin cám ơn vì sự tử tế của anh". Người giúp
bàn trả lời: "Thưa ngài, tôi sẽ không bao giờ quên ngài. Từ 25 năm phục vụ
ở đây, tôi chưa bao giờ nghe được một tiếng cám ơn".
"Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Một
tiếng cám ơn, một lời chào hỏi, nếu được thực thi với tất cả chân tình là một
biểu lộ của một lòng tin sâu sắc. Nói một tiếng cám ơn, biểu lộ một cử chỉ thân
thiện với người khác là muốn nói lên rằng tình liên đới giữa con người là một
điều thiết yếu và ta cần có người chung quanh để sống với. Nói một tiếng cám ơn
với người nào đó là khẳng định giá tị và nhân phẩm của người đó. Nhưng ở đời,
có ai mà không cho ta một món quà hay không dạy ta bất cứ bài học nào đó.
Sách Lẽ Sống Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic
News(08/10/2001).
Cũng như tại bất cứ một trung tâm hành hương nào, tại Lộ Đức, du khách và khách
hành hương có thể đọc được không biết bao nhiêu lời cảm tạ dâng lên Đức Mẹ cũng
như không biết bao nhiêu kỷ vật khác mà những người thọ ơn muốn cho thiết lập
để ghi nhớ ơn Mẹ... Trong muôn nghìn kỷ vật tạ ơn ấy, người ta thấy có một bức
tượng diễn tả một người mù vừa được chữa lành. Dĩ nhiên, được sáng mắt là một
trong những phép lạ đầu tiên được ghi trong sách những phép lạ tại Lộ Đức. Nhưng
bức tượng người mù sáng mắt ở đây lại tượng trưng cho một biến cố khác, một
phép lạ theo đúng nghĩa bởi vì đó là phép lạ của một người tìm lại được ánh
sáng Đức Tin.
Bức tượng này được một người đàn bà quý phái cho dựng lên để ghi nhớ ánh sáng
Đức Tin mà bà đã tìm lại được tại Lộ Đức. Tuy là người Công Giáo, nhưng kể từ
khi chồng qua đời, người đàn bà không còn một chút tin tưởng gì nơi Chúa Mẹ
nữa. Và dĩ nhiên, cũng giống như những người khô đạo khác, người đàn bà chỉ tìm
kiếm có mỗi một điều: đó là thú vui trong cuộc sống.
Một mùa hè nọ, trên đường đi đến một trung tâm nghỉ mát nổi tiếng ở phía Nam
nước Pháp, người đàn bà phải đi qua Lộ Đức. Thấy đám đông tấp nập tại trung tâm
Thánh Mẫu, bà ta tò mò dừng lại xem. Bà không ngờ rằng chính Chúa đang tìm kiếm
và đeo đuổi bà. Từ thái độ bàng quang của một người hiếu kỳ, người đàn bà đã
tìm lại ánh sáng Đức Tin. Để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, bà đã cho dựng lên bức tượng
của người mù với hàng chữ như sau: "Tìm lại Đức Tin là một phép lạ vĩ đại
hơn là được sáng mắt".
Trên vạn nẻo đường của chúng ta, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Thật ra, không
phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đeo đuổi kiếm
tìm con người.
Trong mọi biến cố của cuộc sống, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Trong an vui hạnh
phúc, hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh ta để mời gọi ta tin
tưởng ở Tình Yêu của Ngài. Ngay cả khi con người muốn khước từ và gạt bỏ Ngài
ra khỏi cuộc sống, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đeo đuổi con người.
Thánh Kinh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ
đợi, lúc nào cũng nài nỉ, lúc nào cũg vỗ về, lúc nào cũng tha thứ.
Tin ở một sự hiện diện trung thành như thế của Thiên Chúa, thái độ của chúng ta
phải là thức tỉnh, chờ đợi và tin tưởng không ngừng. Trong an vui thịnh đạt,
chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa. Trong thất bại khổ đau, chúng ta cũng hãy tin
tưởng phó thác. Và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin
tưởng ở lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ mặc con
người.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
33. Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn
VietCatholic
News(09/10/2001).
Thời Cách Mạng Pháp 1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả
những gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân
có muốn từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phác đã trả lời
như sau: "Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi
cầu nguyện".
Tự đáy tâm hồn mình, con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu
nguyện, dưới hình thức này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta
có thể trói buộc tay chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con
người, nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.
Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác
vì bệnh tật, đau đớn hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm
hồn con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên
mọi thử thách và chết chóc.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic News(03/09/2001).
Ngày kia, có một đan viện phụ Công giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn Giáo tại chân
núi Himalaya. Với tất cả ưu tư phiền muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình
trạng bi đát của tu viện do ông điều khiển. Trước kia, tu viện này là một trong
những trung tâm Công giáo thu hút không biết bao nhiêu khách hành hương. Nhà
nguyện lúc nào cũng vang lên tiếng ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp
nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có người ở... Nay tu viện gần như trở thành một
ngôi chùa trống vắng. Làn sóng những người trẻ tìm đến tu viện hầu như tắt lịm.
Nhà nguyện vắng kẻ ra người vào. Một số nhỏ tu sĩ còn lại sống trong uể oải
buông thả... Vị viện phụ muốn hỏi nhà tu sĩ Ấn Giáo: đâu là nguyên nhân đã đưa
đến tình trạng này? Phải chăng vì một tội lỗi tày đình nào đó mà bàn tay Chúa
đã đè nặng trên cộng đoàn?
Sau khi nghe đức viện phụ kể lể, vị tu sĩ Ấn Giáo mới ôn tồn nói: "Cái tội
đã và đang xảy ra trong cộng đoàn: đó là tội vô tình". Vị tu sĩ Ấn Giáo
mới giải thích như sau: "Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người giữa
chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài".
Nhận được lời giải thích của vị tu sĩ Ấn Giáo, đức viện phụ mới hối hả trở về
tu viện, trong lòng ông không khỏi miên man đặt câu hỏi: "Ai là người được
Đấng Cứu Thế đang mượn hình dáng để trở lại với loài người?". Cả tu viện
chỉ có tất cả không đầy mười người. Đấng Cứu Thế không thể là chính ông, vì ông
tự biết mình là một con người tội lỗi yếu hèn. Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ
khác trong tu viện: có người nào toàn vẹn để Đấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng?
Thế nhưng, ông vẫn tin theo lời của vị tu sĩ Ấn Giáo để xác quyết rằng Đấng Cứu
Thế đang cải trang thành một người nào đó trong cộng đoàn...
Với niềm xác tín ấy, ông quy tu tất cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người
biết rằng Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Đôi mắt của
mỗi người mở to ra và ai cũng bắt đầu dò xét từng người trong nhà. Chỉ có điều
chắc chắn là: bởi vì Đấng Cứu Thế đã cải trang, cho nên, không ai có thể nhận
ra Ngài được. Thành ra mỗi người trong nhà đều có thể là Đấng Cứu Thế... Từ đó,
ai ai cũng đối xử với nhau như đối xử với chính Đấng Cứu Thế. Không mấy chốc,
bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Sự
thánh thiện ấy không mấy chốc được đồn thổi đi khắp nơi. Các tín hữu từ khắp
nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều ngưởi trẻ cũng đến gõ cửa
Nhà Dòng...
Nếu người người, ai ai cũng nhìn nhau và đối xử với nhau như đối xử với chính
Chúa Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến tranh sẽ không bao giờ có lý do để tồn tại
trên mặt đất này. Sự vắng bóng của Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô
tình của con người để không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống: đó là đầu mối
của mọi thứ bất hòa, chiến tranh, xáo trộn trong xã hội.
Chối bỏ Thiên Chúa cũng có nghĩa là chối bỏ con người. Sự băng hoại của những
xã hội xây dựng trên chủ thuyết vô thần là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả
của sự chối bỏ Thiên Chúa. Khi con người chối bỏ Thiên Chúa, con người cũng trà
đạp con người...
Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa đến độ Ngài đã trở thành con người
và tự đồng hóa với con người. Từ nay, con người chỉ có thể nhận ra Ngài trong
mỗi người anh em của mình mà thôi. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo
hèn, bạn hữu hay thù địch: mỗi một con người đều là hình ảnh của Thiên Chúa và
chỉ có xuyên qua tình yêu đối với con người, con người mới có thể đến với Thiên
Chúa...
Sách Lẽ Sống, Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Cầu nguyện
không phải là chuyện dễ dàng. Nó đòi hỏi sự liên hệ, trong đó bạn để cho người
khác đi vào chính thẳm cung linh hồn bạn, cho phép họ nói chuyện tại đó, cho
phép họ đụng tới chỗ nhậy cảm nhất của hiện hữu và cho họ thấy rõ bạn muốn dấu
kín. Và khi nào bạn thực sự muốn như thế? Có lẽ bạn cho phép người khác bắt đầu
nói chuyện gì, chạm tới vấn đề gì, nhưng cho phép họ đi vào nơi sự sống khởi
đầu thật rất nguy hiểm và đòi bạn phải tự vệ.
Sự chống lại
việc cầu nguyện cũng giống như chống lại với hai bàn tay nắm chặt. Hình ảnh này
cho thấy sự căng thẳng, sự khao khát muốn giữ lại cho mình, sự ích kỷ cho thấy
có sợ hãi.
Câu chuyện
về một bà già tại một trung tâm phân tâm là một thí dụ về thái độ đó. Bà hung
dữ, khoa tay múa chân khi thấy bất cứ cái gì, và làm cho mọi người chung quanh
sợ hãi, nên bác sĩ phải ra lệnh lấy hết mọi đồ vật chung quanh bà. Nhưng có một
đồng tiền nhỏ bà nắm chặt trong bàn tay nhất định không buông ra. Phải cần hai
người đàn ông gỡ tay bà ra. Hình như mất đồng bạc là bà mất chính mình. Nếu họ
lấy mất đồng bạc cuối cùng đó, bà sẽ không còn gì nữa, không còn là gì nữa. Đó
là nỗi sợ hãi của bà.
Con người
được kêu gọi cầu nguyện cũng được kêu gọi mở bàn tay nắm chặt ra và bỏ cả đồng
bạc cuối cùng. Ai mà muốn làm chuyện đó? Nên lời cầu nguyện đầu tiên, thường là
lời cầu nguyện đau đớn vì bạn khám phá ra bạn không muốn từ bỏ. Bạn nắm cứng
cái gì thân thiết với bạn dù bạn không tự hào về điều ấy. Bạn tự nhủ: "Tôi
là như thế. Tôi muốn thay đổi, nhưng bây giờ không được nữa rồi. Đó chính là
con đường và và là con đường tôi phải từ bỏ." Một khi bạn nói vậy bạn đã
không còn tin là đời bạn sẽ khác, bạn đã để cho hi vọng vào cuộc sống mới đi
vào. Vì bạn không muốn đặt câu hỏi về những kinh nghiệm của mình và những dính
bén, thì bạn đã thu mình để mặc số mệnh. Bạn cảm thấy an toàn hơn khi bám lấy
cái quá khứ đáng tiếc, hơn là tín thác vào tương lai. Như thế bạn nắm trong tay
ướt mồ hôi thật nhiều đồng bạc cắc và bạn không muốn từ bỏ.
Bạn còn cay đắng khi cô gái nọ không biết ơn bạn, vì bạn đã cho cô ta cái gì;
bạn còn ghen tương khi thấy bạn bè được nhiều lương hơn, bạn còn muốn trả thù
người không kính trọng bạn, bạn còn thất vọng vì không nhận được thư từ, còn
giận dữ khi bạn đi ngang qua, cô ta không thèm cười. Bạn sống như thế và với
những tâm tình ấy và không khó chịu.. cho đến lúc bạn muốn cầu nguyện.
Lúc đó mọi
chuyện tái diễn: sự đắng cay, giận ghét, ghen tương, thất vọng và muốn báo thù.
Nhưng những cảm tình ấy không chỉ xuất hiện, bạn còn nắm chặt trong bàn tay như
những kho tàng mà bạn không muốn xa cách. Bạn ngồi tìm kỹ những sự chua chát
như là bạn không thể hành động nếu không có những xúc cảm đó, như là nếu bạn từ
bỏ, bạn sẽ đánh mất chính mình.
Sự không dính
bén thường được hiểu như dứt khoát với điều gì quyến rũ. Nhưng cũng có nghĩa
dính bén với những cái gì làm xa cách. Bạn có thể dính bén với điều chính bạn
ghét. Nếu bạn còn muốn quay lại, bạn còn quá để ý đến quá khứ. Hình như đôi khi
bạn đánh mất chính mình, khi bạn ghét hay muốn báo thù nên bạn đứng đó nắm chặt
bàn tay và tuy đứng gần người có thể chữa bạn khỏi bịnh.
Như thế khi
bạn muốn cầu nguyện thì câu hỏi đầu tiên là: Tôi đã mở bàn tay nắm chặt ra
chưa? Dĩ nhiên không cần dùng võ lực. Cũng không phải do quyết định khó chịu.
Có lẽ bạn tìm thấy cách cầu nguyện trong những lời của thiên thần nói với mục
đồng đang sợ hãi cũng là những lời Chúa sống lại nói với các môn đệ: "Đừng
sợ." Đừng sợ người ta đi vào khoảng không gian bạn đang sống, hay để cho họ
thấy điều mà bạn đang quá lo lắng nắm giữ. Đừng sợ cho họ thấy đồng tiền ướt
mua không được bao nhiêu. Đừng sợ tỏ ra sự ghen ghét chua chát thất vọng cho
người mạc khải mình là tình yêu. Dù cho bạn biết mình không có cái gì để cho
người ta thấy, bạn đừng sợ cho người ta thấy điều ấy. Bạn tiếp tục phỉnh phờ
mình bằng cách đánh lừa người khác làm ra vẻ như mình đẹp đẽ, giữ lại những cái
bẩn thỉu hư thối, làm cho sáng sủa con đường nhỏ có vẻ sạch sẽ. Nhưng những
điều ấy chỉ là miễn cưỡng, áp lực và nhân tạo; điều ấy sẽ làm cho bạn mệt mõi
và biến cầu nguyện thành nên sự ám ảnh.
Khi bạn dám
để cho mọi sự xảy ra và đầu hàng sợ hãi, bàn tay bạn sẽ buông ra và lòng bàn
tay bạn sẽ mở ra thành một điệu bộ tiếp nhận. Dĩ nhiên bạn phải kiên nhẫn,
trước khi bàn tay bạn hoàn toàn mở ra và các bắp thịt giãn nở.
Không bao
giờ bạn có thái độ đó vì bên trong mỗi bàn tay nắm lại đều chứa đựng một cái gì
và nhiều khi tiến trình này không bao giờ chấm dứt. Nhiều chuyện xảy ra trong
cuộc đời bạn làm cho tất cả thành những bàn tay nắm chặt... Trong bất cứ lúc
nào này cũng như đêm, bạn có thể lại nắm lại vì sợ.
Có người nói
với bạn, "Bạn phải có thể tha thứ cho mình." Nhưng điều này không thể
xảy ra. Điều có thể xảy ra là mở bàn tay ra không sợ hãi để người khác có thể
thổi cho tội lỗi của bạn rớt xa. Vì có lẽ không phải đồng tiền ướt nhưng chỉ là
hạt bụi nhỏ bé mà cơn gió nhẹ có thể thổi đi xa để lại nụ cười phở lở hay mím
chi. Rồi bạn sẽ cảm thấy mình có một ít tự do mới và cầu nguyện sẽ thành niềm
vui, một phản ứng bộc phát trước thế giới và con người chung quanh bạn. Cầu
nguyện sẽ không nhọc sức, đầy cảm hứng và sống động, hay bình thản và yên tĩnh.
Rồi bạn sẽ nhận ra lúc lễ lạc hay lúc thường tình là những giây phút cầu
nguyện. Bạn bắt đầu phỏng đoán là cầu nguyện chính là sống vậy.
Lm. Ngô tường
DZũng, Texas, USA.
Huy hiệu của Tổng Thống Hoa Kỳ cho ta thấy hình
con chim Phượng Hoàng với những mũi tên ở một bên chân và những cành ô liu ở
phía chân kia. Những mũi tên là tượng trưng cho chiến tranh và những cành ô liu
tượng trưng cho Hòa Bình. Lúc đầu, huy hiệu trình bày chim Phượng Hoàng hướng
nhìn về các mũi tên, tượng trưng cho thái độ sẵn sàng chiến đấu. Nhưng khi Ông
Harry Truman được bầu làm tổng thống, thì ông đã ra lệnh đổi lại huy hiệu, cho
con Phượng Hoàng nhìn về những cành ô liu. Ông công bố cho mọi người biết rõ
ràng quốc gia Hoa Kỳ và những vị có trách nhiệm vận mệnh quốc gia luôn hướng
đến Hòa Bình, chớ không phải chiến tranh.
Chúng ta đang nhìn về hướng nào đây? Hay đúng hơn
nhìn vào ai đây? Nhìn vào những người, những vật dụng, hướng chúng ta đến chiến
tranh hay hòa bình? Toàn thể Giáo Hội Công Giáo bắt đầu mỗi năm mới, Mồng Một
Tháng Giêng, với Ngày Lễ cầu nguyện cho Công Lý và Hòa Bình. Và Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã công bố rõ ràng là ngài muốn tất cả mọi thành phần Giáo Hội
nhìn về Chúa Giêsu Kitô, Vua Hòa Bình. Chúa đã và còn đang đến với con người
trong lịch sử, mang đến ơn Cứu Rỗi, sự Giải Hòa, tình Yêu Thương và Bình An. Và
mỗi người đồ đệ của Chúa được mời gọi nhìn về Chúa, đón nhận Chúa, đón nhận ơn
Cứu Rỗi, sự Hòa Giải, tình Yêu Thương và Hòa Bình. Mỗi người chúng ta sống
trong một hoàn cảnh cụ thể, nhưng mỗi người đều được mời gọi hướng về Chúa và
đến với Chúa. Chúa đã và còn đang đến với mỗi người, nơi một điểm hẹn nào đó.
Và mỗi người chúng ta cũng được mời gọi hãy đến điểm hẹn đó để gặp Chúa, để gặp
Chúa và lãnh nhận từ Ngài hồng ân tình thương, ngõ hầu tình thương chúng ta đối
với anh chị em được củng cố vững mạnh thêm mãi.
Đoạn Phúc Âm từ câu 5-11, của chương 8, Phúc Âm
theo thánh Matthêu, có thể nhắc chúng ta về "điểm hẹn" nầy với Chúa.
Chúa Giêsu vào thành Capharnaum. Ngài đã chọn một hoàn cảnh lịch sử, một địa
điểm, làm điểm hẹn với con người. Và viên sĩ quan Roma, có lòng tin và đầy tình
thương đối với người đầy tớ, nhưng lại gặp phải một thử thách làm ông xem ra
như bó tay. Ông không làm gì được nữa để chữa cho người đầy tớ bại đau yếu. Ông
hướng về Chúa và nhất quyết ra đi, đến nơi gặp Chúa để xin Ngài trợ giúp. Tác
giả Phúc Âm theo thánh Matthêu đã kể lại như sau:
Khi ấy Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một
viên đại đội trưởng đến gặp Chúa và nài xin rằng: Lạy Thầy, người đầy tớ của
tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm. Chúa nói: Chính tôi sẽ đến chữa nó.
Viên đại đội trưởng đáp: Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin
Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền
kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền. tôi bảo người nầy đi, là nó đi, bảo
người kia đến, là nó đến, và bảo người nô lệ tôi làm cái nầy là nó làm. Nghe
vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những người theo Người rằng: Tôi bảo thật
các ông, tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho
các ông hay: từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ
Abraham, Isaac, Giacop trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước trời thì sẽ bị quăng
ra chỗ tối tăm bên ngoài, ỏ đó sẽ phải khóc lóc nghiếm răng. Rồi Chúa Giêsu nói
với viên đại đội trưởng rằng: Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy.
Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh.
Viên sĩ quan Roma đang sống trong hoàn cảnh thử
thách. Ông đang gặp phải môt vấn đề, và cảm thấy mình bất lực. Tuy nhiên, chút
lòng tin và tình thương chân thật nơi ông, đã hướng ông đến với Chúa, và lãnh
nhận một cách nhưng không hồng ân của Chúa, để giải quyết vấn đề, có lợi cho
người đầy tớ, và cả cho chính ông. Sự vui mừng, bình an đã trở lại, hay đúng
hơn, được gia tăng thêm nữa, trong nhà ông, khi người đầy tớ được phép lạ Chúa
chữa lành bệnh. Phúc Âm không nói, nhưng chúng ta có thể hiểu thêm là viên sĩ
quan Roma, sau khi đã gặp được Chúa và hưởng ơn lành Chúa ban cho, chắc chắn sẽ
được củng cố thêm trong niềm tin đối với Chúa và trong tình thương yêu đối với
mọi người quanh ông.
Ước chi chút lòng tin và tình thương nơi tâm hồn
chúng ta còn đủ sức thôi thúc chúng ta bằng những lời kêu gọi chúng ta đến với
Chúa, mà Giáo Hội gởi đến từng người chúng ta hằng ngày, kêu gọi chúng ta hãy
chuẩn bị cho Chúa đến với mình. Ước chi những thử thách, những đau khổ, không
làm chúng ta lánh xa Chúa, nhưng ngược lại, như đã xảy ra cho viên sĩ quan Roma
ngày xưa, làm cho chúng ta quay trở về với Chúa và gặp Ngài thật sự.
Lạy Chúa, xin thương khơi dậy nơi chúng con ước
muốn đến gặp Chúa vừa mang theo những việc làm tốt mà sức con người chúng con
còn có thể làm được. Xin thương giúp chúng con canh tân niềm tin, gia tăng tình
thương và sống kiên trì làm việc tốt trong cảnh sống cụ thể của mình, vì đây là
cách tốt nhất chúng con chuẩn bị đón Chúa đến. Amen.
Đức
Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
Bỏ xứ mình để đến phục vụ tại nơi đất khách quê
người quả là một lý tưởng đáng ca ngợi. Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều
thanh niên thiếu nữ tây phương chán cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng trong
xã hội dư dật, đã tình nguyện sang các nước thuộc thế giới thứ ba để phục vụ.
Một thanh niên nọ đã xin đến Ấn Độ để phục vụ
người nghèo. Ra đi hồ hởi bấy nhiêu, giờ này chạm với thực tế, anh cảm thấy
thất vọng bấy nhiêu. Tất cả đều xa lạ và tất cả đều làm anh chán nản: từ khí
hậu cho đến thức ăn, điều kiện sống và nhất là những khuôn mặt xem ra rất bí
hiểm đối với anh. Nhưng điều làm cho anh mất hết kiên nhẫn lại là một điều
không đáng bận tâm mấy...
Người ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ
và dĩ nhiên cũng không nhiều tiện nghi lắm. Anh dọn dẹp và sắp xếp căn phòng
lại cho tươm tất. Duy có một chướng ngại mà anh không thể vượt qua để có thể
sống bình thản: đó là sự hiện diện của một chú thằn lằn. Anh tìm đủ mọi cách để
xua đuổi nó ra khỏi căn phòng, nhưng vô ích: đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này,
nó chạy vào nơi khác. Cuối cùng con vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và
ngự trị hẳn trong đó. Không còn biết làm cách nào khác hơn để tẩy chay con vật,
anh đành phải nghĩ đến chuyện làm quen với nó.
Dần dần, con thú đã trở thành một người bạn của
anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn. Khi
con vật đã trở thành thân thiết với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò
chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó rất nhiều
đức tính trong đó quan trọng hơn cả đó là tài săn muỗi của nó.
Sự hiện diện của chú thằn lằn đã giúp cho anh khám
phá được một chân lý trong cuộc sống: những khó khăn không đến từ môi trường
chung quanh, mà chính từ bản thân anh.
Chúng ta vẫn thường lặp lại
câu thơ của Nguyễn Du: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", như để
nói rằng lắm khi chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm trạng của chúng ta. Khi
chúng ta vui, chúng ta như thấy cảnh vật xung quanh chúng ta cũng vui lây. Khi
chúng ta buồn, cảnh có đẹp đến đâu, chúng ta vẫn thấy u ám. Lắm khi những vấn
đề khó khăn không đến với chúng ta từ ngoại cảnh, từ những người khác, mà chính
từ chúng ta. Gương mặt cau có của chúng ta thường được chúng ta nhìn thấy nơi
tất cả mọi người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta vui, chúng ta như cảm thấy
mọi người đều vui vẻ với chúng ta. Quả thật, chúng ta đong đấu nào, thì người
sẽ đong lại đấu ấy cho chúng ta.
Câu chúc đầu tiên của Đức Kitô phục sinh mỗi lần
hiện ra cho các môn đệ của Ngài là: :bình an cho các con". Có sự bình an
đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới thắng được sợ hãi, mới vượt qua được
những khó khăn trong tâm hồn. Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta
mới dễ dàng tha thứ và chấp nhận chính bản thân để rồi từ đó mới có thể tha thứ
và chấp nhận tha nhân cũng như mọi nghịch cảnh. Mang lấy màu xanh của hy vọng,
đôi mắt chúng ta mới dễ dàng nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan. Trái lại,
mang lấy bộ mặt cau có và buồn chán, đi đâu, ở đâu, chúng ta cũng chỉ thấy bất
mãn, thất vọng và khó chịu.
Sách
Lẽ Sống, Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Khi nói đến những người lãnh đạo, chúng ta thường
đòi hỏi họ phải là những con người cao siêu, thánh thiện, tài ba, lỗi lạc; và
ít có người hiểu cho họ rằng họ cũng có những yếu hèn của một kiếp người như
chúng ta. Lẽ đương nhiên, những người lãnh đạo cũng cần đến sự hợp tác, cảm
thông, nâng đỡ của chúng ta, nhất là cần thêm lời cầu nguyện. Qua bài viết nầy,
tôi muốn chia sẻ với quí anh chị em về một khía cạnh rất thực tế, một khía cạnh
rất là người của bất cứ một con người nào. Như câu chuyện của Vua Đavít, ngài
là một con người rất thánh thiện và tài ba nhưng cũng đã có lúc trót phạm lỗi
lầm. Để chúng ta biết rõ thêm thân phận yếu kém của con người và học ở đó một
bài học khiêm tốn, thông cảm, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại những giới hạn và
những nguyên nhân rất dễ vấp ngã của mỗi một con người chúng ta.
Hãy trở lại với câu chuyện vua thánh Đavit. Một
buổi chiều kia, một buổi chiều đẹp trời, Đavit chổi dậy và đi bách bộ trên sân
thượng, ông thấy một người đàn bà đang tắm. Người đàn bà ấy rất đẹp và ông đã
bị quyến rũ.
Sau giấc ngủ, Đavit đi bách bộ trên sân thượng nhà
vua, việc đó không có gì sai trái cả, nhưng chính sự chán nản, chính khi tâm
hồn xuống dốc cho thấy sức mạnh của sự dữ trong con người. Sự dữ là một phần
của con người. Nó nằm sẵn trong chúng ta và chỉ cần một sự khơi nhẹ cũng đủ để
làm nó lộ diện.
Từ ngày hôm đó, Đavit âm thầm cho người điều tra
về người đàn bà ấy và được biết bà ta là Bathseba, con gái Eliam, vợ của
Uria... Đavit đã cho người đi đưa bà ta về và Đavit đã ngủ với bà ta.
Một con người tốt lành như Đavit nhưng chỉ trong
phút chốc đã phạm tội. Thật vậy, chúng ta mang những kho tàng quí báu của chúng
ta trong những bình sành, chỉ cần một chút bất cẩn là có thể làm tiêu tan ngay.
Blessed Claude de la Colombiere nói: "Tôi cảm thấy trong tôi khả năng của
mọi tội".
Quả thế, trong bản tính con người yếu hèn của
chúng ta, nhất là trong những lúc buồn phiền, chán nản, thất vọng hay những lúc
chúng ta bất hòa, giận dữ người khác, chúng ta có thể liều mình dám làm bất cứ
điều gì ngay cả những tội tầy đình mà chúng ta không bao giờ dám nghĩ đến trước
đây. Đó cũng là trường hợp vừa xảy ra vào ngày 4/05/1998, ngay tại cung điện
Roma. Một người lính vệ binh của Đức Giáo Hoàng vì quá tức giận trong phút chốc
đã rút súng bắn chết ngay hai vợ chồng Đại Tá Alois Estermann, vị chỉ huy
trưởng của anh ta, và sau đó anh ta cũng dùng ngay chính khẩu súng đó để tự
sát.
May mắn cho chúng ta là những con người nhận thức
ra được điều đó. Ít ra nó cũng ngăn ngừa chúng ta khỏi bị khủng hoảng bỡi những
điều xâùu mà chúng ta thấy nơi người khác. Chúng ta không thể biết được lúc nào
nó xảy ra.
Tiến trình của sự dữ luôn là một tiến trình chậm,
một ngòi nổ chậm, nhưng nó vẫn luôn hoạt động. Nó thường bắt đầu với một yếu
điểm vô tội. Đó có thể là một sự tò mò, hiếu kỳ của con người mà ai trong chúng
ta cũng đều có. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, cái yếu điểm ấy đã phát
triển một cách nhanh chóng, trở thành một tội ác, một kẻ giết người như ở cuối
câu chuyện của Davit: Uria đã bị giết chết bỡi mưu đồ của Đavit.
Đây là cách thế mà sự dữ thường phát triển trong
mỗi con người chúng ta. Nó bắt đầu không có gì là quan trọng, không có gì đáng
quan tâm. Nó quá tầm thường đến độ không ai để ý, chẳng hạn như tôi nói láo, đó
có thể là một điều nhỏ. Nhưng đã một lần tôi nói láo, tôi phải nói một lần nữa
để người ta tin. Không bao lâu tôi đã rơi vào vòng nói láo. Một người không đi
học nhưng lại muốn khoe khoang là một người có học thức, trả lời cho một người
bạn hỏi thăm: Anh đang làm gì? Có còn đi học không?... Vì không dám trả lời
rằng không, nên đã nói có. Thế rồi, người bạn hỏi tiếp: Anh đang theo học
trường nào? Đã trót lỡ nói láo nên phải nói láo luôn: trường U of M (University
of Minnesota) -Học môn gì? -Computer science -Lấy mấy lớp? Lấy 4 lớp ... và cứ
như thế đến vô tận...
Một ví dụ khác là ly dị. Ly dị không phải là sự
kiện mới xảy ra bây giờ. Nó đã có lâu đời trong lịch sử. Nó có thể bắt đầu với
cảm giác chán chường. Có lẽ người chồng có cảm giác sợ hãi mình trở nên già và
đã phóng sự sợ ấy lên người vợ. Sự lo âu sợ hãi của anh làm anh ta buồn chán và
bắt đầu mất đi sự thích thú với vợ mình. Những cảm giác đó làm việc trong vô
thức để rồi dần dần vợ chồng xa dần nhau. Anh ta bắt đầu thích một người đàn bà
khác, một cái gì mới mẻ hơn. Và rồi giấc mơ đó lại biến thành sự thật. Hai
người ngày càng trở nên thân thiện. Sau một thời gian họ thấy rằng họ đang trên
con đường nguy hiểm, nhưng họ nói với nhau: "Chúng ta sẽ xếp đặt. Chúng ta
sẽ có giới hạn. Chúng ta chỉ là những người bạn tốt của nhau". Họ thật là
điên cuồng bỡi lẽ lý luận của con tim thì khác với lý luận của lý trí và cảm
xúc của con người thì khó có thể giới hạn được. Dĩ nhiên là nó dễ đi đến kết
thúc trong sự ly dị.
Thật vậy, sự dữ bắt đầu với một yếu tố hết sức tầm
thường, tầm thường đến độ không một ai có thể ngờ được nên chẳng mấy ai đề
phòng. Như bao nhiêu tiến trình khác, sự dữ bắt đầu với một hạt giống, nó đâm
chồi đâm rễ và mọc lên. Hãy xem trong câu chuyện Đavit, sự dữ tiến hành thế
nào? Người đàn bà mang thai và đưa tin cho Đavit. Đavit sau khi nghe biết sự
việc, tìm cách che giấu tội mình. Một điều mà ông ta hết sức quan tâm đó là cứu
bộ mặt của ông. Ông ta không muốn nhận tội lỗi của mình và vì thế ngày càng lún
sâu vào vũng lầy của sự dữ. Từ nay mọi quyền lực của ngai vàng đều đươcï xử
dụng cho mục đích nầy để bảo vệ danh dự của ông. Không có lý do nào để Đavit ra
lệnh cho Uria rời bỏ chiến trường về hoàng cung và rồi cho về nhà để ngủ với vợ
trong lúc chiến trường đang gay cấn. Nhưng không may cho Đavit, Uria đã không
về nhà nhưng ngủ lại hoàng cung, và như thế mưu đồ của Đavit thất bại. Đavit
thấy mình thất bại, vội vàng xoay sang thủ đoạn khác. Ông tìm cách để liệu cho
Uria được đẩy ra ngoài địa đầu chiến tuyến chỗ nguy hiểm nhất để Uria bị giết
chết. Lần nầy thì mưu đồ của ông đã thành công. Ông đã làm công việc đó để cứu
sỉ diện của ông. Nhưng điều đó không đúng chút nào lại còn mang thêm một trọng
tội khác.
Sau khi Đavit đã được sứ giả cho biết Uria đã bị
giết chết, Đavit đã đổi ngay thái độ. Ông không còn hay nổi trận lôi đình nữa,
không còn hay gắt gỏng, cau có, nóng giận, khó tính và lo sợ nữa. Ông xem ra
trầm tĩnh hơn, bỡi lẽ bây giờ ông có thể lấy Bathseba làm thiếp mà không còn
phải sợ mất sỉ diện nữa. Chính việc che dấu tội của Đavit còn xấu hơn gấp trăm
ngàn lần cái tội mà ông đã phạm với bà Bathseba. Nếu ông đã xưng thú, đã nhận
lỗi, điều đó đã không đến nỗi quá xấu. Cái tội ác tầy đình bắt đầu khi ông cố
gắng che dấu tội mình. Vì thế Thiên Chúa đã sai tiên tri Nathan đến nói cho ông
dụ ngôn nầy:
Trong một thành kia có hai người, một người giàu
và một người nghèo. Người giàu thì có vô số chiên lừa, còn người nghèo chỉ có
một con làm gia sản. Ngày kia người giàu có khách đến thăm. Ông không muốn giết
chiên mình để đãi khách mà đi bắt con chiên của người nghèo giết đi mà đãi
khách. Đavit nghe đến đó thì nỗi trận lôi đình lên và phán bảo: "Người đó
đáng chết!" Lương tâm của Đavit rất tốt trong việc quan tâm đến người
khác. Ông ta thấy rõ ràng rằng người giàu đã làm một việc bất công và ông không
chấp nhận điều đó. Nhưng ông đâu có biết rằng chính ông cũng đã làm như vậy.
Đavit đã sống trong sự yên hàn bấp bênh cũa lương tâm bằng việc dấn thân cho
một thế giới bên ngoài.
Trong khi lên án tố cáo người khác, con người
không còn năng lực nào còn lại để đối diện và nhận ra lỗi mình. Sự nhiệt thành
cũa Đavit đối với công việc bên ngoài là một sự chạy trốn. Cái tội mà Đavit lên
án nơi người giàu là một tội đáng phạt. Tuy nhiên lòng đam mê công lý của Đavit
cho thấy sự bất công quá đáng nơi chính ông ta. Sự sốt sắng cải thiện và sự dấn
thân phục vụ để tác động những người khác quả thật có thể đó là một sự che lấp
tinh vi của một sự sợ sệt và tội lỗi cá nhân. Các nhà tâm lý học cho chúng ta
thấy rằng qua những đam mê hoạt động của chúng ta, chúng ta cố gắng dập tắt cái
cảm giác sợ sệt và tội lỗi để làm chúng ta trở nên có giá trị hơn dưới con mắt
người khác bằng những công việc hoạt động. Chính những hoạt động đó có thể làm
chúng ta trở thành những con người hết sức hấp dẫn mà rất ít người có thể nhận
ra có một sự chạy trốn nào đó ở đàng sau bộ mặt hấp dẫn đó. Và đây chính là
trường hợp của Đavit. Nhưng Thiên Chúa có muôn ngàn cách thế khác nhau để cảnh
tĩnh những con người Ngài muốn tuyển chọn. Ngài đã sai tiên tri Nathan đến cảnh
cáo Đavit: "Chính ngươi là người nhà giàu mà ngươi đã lên án đó!" Từ
bấy giờ Đavit mới bắt đầu mở bừng mắt ra và ông đã thú nhận những tội lỗi mình.
Lời Chúa là một cái gì sống động và hữu hiệu. Lời đó được nói với Đavit qua một
người khác. Đavit cần một người trung gian để đưa ông đến việc chấp nhận và
xưng thú tội mình: "Tôi đã phạm tội chống lại Giavê".
Bao lâu chúng ta còn che dấu lỗi mình, bấy lâu
chúng ta còn cảm thấy mình không được đón nhận. Khi chúng ta thật sự chấp nhận
sự đón nhận của Thiên Chúa và tin rằng sự đón nhận của Ngài là vô giới hạn, bấy
giờ chúng ta mới có thể xưng thú tội mình. Việc chúng ta dấu tội là một dấu chỉ
cho thấy chúng ta không hoàn toàn tin vào tình yêu thiên Chúa. Nó nói lên một
sự thiếu kém lòng tin. Thỉnh thoảng chúng ta gặp những người không biết chấp
nhận lỗi mình, không bao giờ biết nói lên lời xin lỗi, họ là những con người
đáng được thương hại vì họ là những con người đau khổ hơn cả bỡi sự bất an của
tâm hồn họ. Sự an bình không tìm được trong sự che dấu nhưng trong sự tha thứ.
Bấy giờ sự tha thứ mặc khải cho họ một chiều sâu mới trong tình yêu Thiên Chúa.
Trong giây phút tha thứ, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Ngài là lớn lao
hơn những lầm lỗi của chúng ta và sự chấp nhận của Ngài là vô điều kiện. Sự tha
thứ tạo nên một mối giây liên hệ mới giữa con người và Thiên Chúa. Chỉ có con
người có sự can đảm xưng thú tội mình mới có thể thật sự chấp nhận chính mình
và tìm thấy được sự an bình mà thế gian không thể ban cho và lấy đi được.
Lm.
Peter Lê Văn Quảng, Tân Trúc, Đài Loan
Vua Friedrich Wilhelm cai trị nước Phổ vào khoảng
đầu thế kỷ thứ 18. Ông nổi tiếng là người nóng nảy khó tính. Ông không thích
những nghi thức rườm rà. Ông chỉ thích đi dạo một mình giữa các đường phố
Berlin. Thích sống đơn giản, nhưng ông lại rất nhạy cảm với bất cứ một sự xúc
phạm nào của thần dân. Nếu chẳng may có người nào chạm đến ông giữa đám đông,
ông sẽ không ngần ngại dùng gậy đập túi bụi vào người đó. Thành ra, khi thấy
đức vua đang đi đến, mọi người đều tìm cách lẩn tránh.
Lần kia, khi ông dang đi giữa phố Berlin, một
người đàn ông đang đi tới, bỗng lẩn tránh đi nơi khác. Vừa ngạc nhiên, vừa bực
tức vì dân chúng lẩn tránh mình, vua Friedrich mới chận người đàn ông lại và
hỏi lý do tại sao ông ta lẩn tránh đi nơi khác. Người đàn ông luống cuống mãi,
cuối cùng đành phải thú nhận rằng sở dĩ ông ta lẩn tránh nhà vua là vì sợ hãi.
Nghe đến đó, vua Friedrich nổi tam bành, ông túm lấy vai người đàn ông đáng
thương, vừa lắc mạnh, vừa thét lên: "Tại sao ngươi dám sợ ta. Ta là vua
của ngươi. Ngươi phải yêu mến ta. Ngươi phải yêu mến ta, ngươi có biết điều đó
không?".
Chỉ có con người mới biết yêu bởi vì chỉ có con
người mới có tự do. Không ai có thể cưỡng bách người khác phải yêu mình... Tạo
dựng con người có tự do, Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do ấy. Ngài không
cưỡng bách con người phải yêu mến Ngài, nhưng chỉ mời gọi và tỏ tình. Bằng công
cuộc tạo dựng, bằng cuộc sống và cái chết của Con Một Ngài, Thiên Chúa đã tỏ
tình với con người... Tình yêu luôn đi bước trước. Bước trước ấy là một lời
nói, một ánh mắt, một nụ cười, một món quà, một nghĩa cử.
Sách
Lẽ Sống - Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Có hai người lái buôn và cũng là hai người bạn thân
quyết chí lên đường đi tìm cho kỳ được điều quý giá nhất trên trần gian này.
Mỗi người ra đi một ngả và thề thốt sẽ gặp lại nhau sau khi đã tìm được điều
quý giá nhất ấy.
Người thứ nhất lặn lội đi tìm cho kỳ được viên
ngọc mà ông cho là quý giá nhất trên trần gian này. Ông băng rừng, vượt biển và
không bỏ sót thành phố, làng mạc nào mà không ghé qua. Bất cứ nơi nào có bán đá
quý, ông đều tìm tới. Cuối cùng, ông mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc mà ông
cho là quý giá nhất trần gian. Ông trở lại quê hương và chờ đợi người bạn của
ông.
Nhiều năm trôi qua mà người bạn của ông vẫn biệt vô âm tín. Thì ra điều ông đi
tìm kiếm không phải là vàng bạc, châu báu, mà là chính Chúa. Ông đi khắp nơi để
thọ giáo những bậc thánh hiền. Ông cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn
không tìm gặp được Chúa.
Ngày nọ, ông đến ngồi thẫn thờ bên một dòng sông.
Nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông bỗng thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con
đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch cứ muốn rời mẹ để đi kiếm ăn riêng. Đi
tìm con này đến con nọ, con vịt mẹ cứ phải lặn lội đi tìm đàn con mà không hề
tỏ dấu giận dữ hay gắt gỏng... Nhìn thấy cảnh vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế,
người đàn ông mỉm cười và đứng dậy trở về quê hương.
Vừa gặp nhau, người bạn đã tìm được viên ngọc quý
mới buột miệng hỏi trước: "Cho tôi xem thử điều quý giá nhất mà anh đa tìm
được. Tôi nghĩ đó phải là điều tuyệt diệu, bởi vì gương mặt anh dường như đang
nở nụ cười mãn nguyện chưa từng thấy".
Con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm
hồn tràn ngập hân hoan trả lời: "Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng tôi đã
khám phá ra rằng chính Ngài là Đấng đi tìm tôi".
Có con vịt mẹ đi tìm con không biết mệt mỏi, có
lời loan báo của sứ thần cho các mục tử trong đêm Giáng Sinh, có ánh sao lạ dẫn
đường chỉ lối cho các nhà đạo sĩ... Có trăm phương nghìn cách qua đó Thiên Chúa
không ngừng đi tìm con người và ngỏ lời với con người.
Thiên Chúa không ngừng đi tìm kiếm và ra dấu cho
con người. Ngài ra dấu cho chúng ta qua muôn kỳ công trong vũ trụ. Ngài ra dấu
cho chúng ta qua những khám phá kỳ diệu của con người. Ngài ra dấu cho chúng ta
qua những thiện chí thực thi tình người của chính con người... Bao nhiêu vẻ đẹp
là bấy nhiêu những vì sao dẫn đường chỉ lối cho con người.
Nhưng Thiên Chúa không dẫn đường chỉ lối bằng
những ánh sao lạ, Ngài còn mời gọi chúng ta bằng những tiếng gọi âm thầm. Có
tiếng gọi âm thầm của buổi bình minh, của chiều tà, của những đêm không trăng
sao. Có tiếng gọi âm thầm của một nụ cười vừa hé mở. Có tiếng gọi âm thầm của
tiếng khóc câm lặng. Có tiếng gọi âm thầm của những mất mát, đổ vỡ.
Mỗi một khoảnh khắc qua đi là một tiếng gọi âm
thầm. Phải, Ngài đang có mặt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta, bởi
vì tên của Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Sách
Lẽ Sống - Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Trong tập thơ mang tựa đề Gitanjali, thi hào
Tagore đã có bài thơ về tù nhân như sau:
"Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã xiềng
xích ngươi. Tù nhân đáp, thưa chính là chủ tôi. Tôi đã muốn thắng vượt mọi
người, bằng của cải và quyền lực, cho nên tôi đã vơ vét vào kho tàng của tôi
tất cả tiền bạc của chủ. Mệt mỏi vì cuộc chạy đua theo tiền của tôi, cuối cùng
tôi đã thiếp ngủ ngay trên chính giường của chủ tôi. Khi thức dậy, tôi thấy
mình đã bị giam hãm ngay trên kho tàng của tôi.
Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã rèn chiếc
xích sắt này cho ngươi. Tù nhân đáp: tôi đã muốn giam hãm tất cả thế giới, vì
như thế tôi sẽ được tự do và không còn ai quấy rầy. Ngày đêm, tôi đã dùng lửa,
búa và chiếc dũa để rèn sợi xích này. Khi nó được hoàn thành, và chiếc mốc cuối
cùng được nối lại, tôi đã để cho sợi xích giam hãm cả cuộc đời của tôi, khiến
không có gì bẻ gãy được".
Năm 1989, nước Pháp đã mừng kỷ niệm 200 năm cuộc
cách mạng 1789. Cùng với việc lật đổ chế độ quân chủ, bản tuyên ngôn nhân quyền
được công bố ngày 04 tháng 8 năm 1789 đã đánh dấu một bước dài của nhân loại
tiến đến tự do, dân chủ.
Nhưng oái oăm thay, người ta đã nhân danh tự do để
chống lại tự do và phạm không biết bao nhiêu tội ác đối với con người. Nhân
danh tự do, Robespierre đã giết hại 25 ngàn người cũng như cấm chế nhiều quyền
tự do trong đó cơ bản nhất là quyền tự do tôn giáo.
Lịch sử cũng đã được lập lại trong rất nhiều cuộc
cách mạng sau này. Mới đây tại Trung Quốc, người ta đã nhân danh tự do dân chủ
để đạp đổ Nữ Thần Tự Do và sát hại không biết bao nhiêu người đòi tự do.
Nhân danh tự do để chối bỏ tự do của người khác,
nhân danh quyền con người để chà đạp quyền sống của người khác: đó là thảm
trạng của không biết bao nhiêu cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay. Chính
khi con người chối bỏ tự do và chà đạp quyền sống của người khác là cũng chính
lúc con người tự giam hãm mình trong nô lệ, nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tiền
bạc, nô lệ cho bất an... Lắm khi con người tự rèn lấy cho mình xích xiềng để tự
chói lấy mình. Nhà tù ấy, sợi xích ấy chính là lòng tham lam nơi con người:
tham lam tiền của, tham lam quyền lực, tham lam danh vọng.
Sách
Lẽ Sống, Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Tâm tình những anh em cai nghiện
Giêsu như một niềm xác tín,
mà trải qua những lần vấp ngã tôi đã gặp được Người. Người đã chết cho tôi khi
tôi chưa biết Người, Người đã chết cho tôi khi tôi còn là một tội nhân, Người
đã chết cho tôi khi tôi còn hờ hững với Người.
Được gọi Danh của Người, con đường nhạân biết ấy
tuy ngắn ngủi nhưng lại là một hành trình xa, xa hơn một kiếp người, xa hơn một
chiều giông tố đánh bạt cuộc đời trên những lối ngã. Tôi đã ngã, đời quật tôi
ngã, cái ngã của một thân phận làm người, cái ngã của những chiều vàng tội lỗi.
Như chiều vàng của thân phận, đường đi mờ lối, tình người đen bóng, những lối
lạc đầy quyến rũ, và thế là đi hoang cho một thân phận và thế là đánh rơi một
kiếp người trong cơn mê nồng của phù thế. Có những trượt ngã dễ dàng mà khó
đứng dậy, tôi đã đổ hết canh bạc đời mình cho nàng tiên nâu quyến rũ. Người ơi
và đời ơi.
Tôi đã ngã, cái trượt ngã dễ dàng của lứa tuổi dại
khờ, lạc lối, tôi đã ngã và Giêsu ơi, Người đã ngã cho cho tôi, Người là Đấng
vô tội, Người đã ngã thay tôi trong những chiều vàng men say của tội lỗi để tôi
đứng dậy. Tôi là ai, Người đã ngã thay cho tôi, tôi là ai, mà Người đã đón nhận
lấy tội lỗi của tôi. Tôi là ai, nếu tôi vẫn vô tình, tôi vẫn mãi mãi là những
đứa trẻ ngu ngơ trong cuộc sống. Người đã đến bên tôi trong chiều vàng che lối,
bước đi cạnh tôi trong những cơn men nồng của cơn say, Người đã nâng dậy đời
tôi trong âm thầm và kín đáo cho đến lúc tôi được goị Danh Người. Giêsu ơi, một
ngôn từ ngắn gọn, nhưng ray rứt trong moị chiều suy nghĩ của lòng tôi. Trước
đây tôi đã tin Người là Chúa, niềm xác tín chỉ mơ hồ trong suy nghĩ vì Người đã
cứu tôi. Niềm xác tín ấy bén rễ sâu hơn trong tôi khi tôi gặp được bàn tay của
Người đã và đang đụng chạm vào những cuộc đời rơi ngã của những thế hệ sau tôi,
qua bàn tay của Linh mục, soeur, các bác sỹ của bao người không quen biết mà
rất đầy tình thương. Từ những bàn tay yêu thương ấy, tôi đã hiểu thế naò là
Tình Yêu của chiều Thập Giá, một Tình Yêu cho đi để bao người được sống dồi
dào. Tôi đã ray rứt bởi lối đường đi ích kỉ của tôi, Người đã chết cho tôi bởi
những ích kỷ ấy. Giêsu, tôi tin Người vẫn hiện diện qua từng lời noí, qua từng
hành động yêu thương. Giọt mồ hôi, nước mắt naò của tình thương mà không hoạ
lại Tình Yêu chiụ đóng đinh trên Thập Tự.
Giêsu, niềm thao thức của tôi. Tôi thao thức về
Người vì những bàn tay đang chạm khẽ vào những cứng coỉ của lòng tôi, tôi đã
thấy và tôi đã tin, tôi đã gặp được Người trong khoá Phục Sinh 1 mà tôi đến
tham dự. Người goị tôi đến để thấy và để tin, tôi đã tin, tin vào Tình Yêu Thập
tự, “Tôi không thể nào tưởng tượng được khi thấy cha và soeur làm những việc mà
những người lao công không thèm làm, như đổ bô, hốt chất nôn mửa, xoa bóp cho
những anh em 30-40 tuổi mà làm nũng như con nít và bao giờ cũng phaỉ diụ dàng
dù phaỉ thức trắng đêm bên cạnh các bạn”. Có phải Tình yêu cho đi đến cùng là
Tình Yêu Thập Giá, là Tình Yêu chiụ đóng đinh cho người mình yêu, tôi đã tự hoỉ
và tôi đã tin.
Tôi đã tin bởi Người đã đi vào thân phận đời tôi,
Người đã dùng tôi cũng như đã dùng những anh em cai nghiện khoá Phục Sinh 1,
như những khí cụ bỏ đi để thu về cho Người những vụ mùa gặp gỡ. Người là Đấng
luôn làm cho tôi bất ngờ trong những nghĩ suy, lay động tâm hồn chật hẹp của
tôi . Caí gặp gỡ của bất ngờ khi tôi nhận ra những ngỡ ngàng của những người
phục vụ khi họ chia sẻ:
“ Tôi không phải là người công giáo, tôi chưa biết
Chúa và Đức Mẹ là ai cả. Nhưng, những ngaỳ qua, nhìn cha và soeur, tôi hiểu
được Chúa và Đức Mẹ là thế naò. Trong đời bác sỹ của mình, chưa bao giờ tôi
sống một thời gian phục vụ tràn đầy tình người như thế”.
“Tôi từng coi thường những con người nghiện, vì
không thể chấp nhận được những con người đem cuộc đời mình mà vất đi như thế.
Nhưng trong những ngày qua, tôi hiểu được nhiều điều. Các em đã vào tìm tôi
bằng những buước đi rón rén đến tỏ lòng yêu thương tôi. Từ trước đến giờ tôi
nghĩ rằng chỉ có bệnh nhân mới cần đến bác sĩ chứ không đời nào bác sĩ cần đến
bệnh nhân.
Các em đã dạy tôi biết cần đến bệnh nhân, ít ra là
để đốt lên trong tôi một tình người trong sáng hơn và chữa trị cho tôi cái nhìn
tự mãn và kẻ cả của mình. Tôi cám ơn các em”.
“Khi có tình thương thì phép lạ xảy ra, tình
thương của cha, của các y sĩ, bác sĩ, của các em cai nghiện, các thầy trong
cộng đoàn AEDMNN, một cộng đoàn với tinh thần cởi mở và phục vụ mà tôi ít thấy
ở những nơi khác. Chúa đã dạy tôi rất nhiều bài học. Dạy tôi biết rằng quyền
năng của Người cũng vô biên như tình yêu của Người. Dạy một cách cụ thể, nhìn
được, chạm được. Qua bao nhiêu biến cố và bao nhiêu tình thương của những người
quanh tôi. Chẳng những tôi học qua cha, các thầy mà còn học được nơi các anh
chị em trợ giúp, nơi những em cai nghiện, nơi những bác sĩ ngoài công giáo, nơi
những ân nhân âm thầm đến với các em… tinh thần phục vụ của những người ngoài
công giáo ấy cũng giúp tôi nhìn lại mức độ trong sáng của đức ái tu sĩ Kitô
giáo của mình. Trước những khờ dại và ngu muội của bản thân được tỏ rõ trong
khóa này, tôi có thêm bằng chứng để lặp lại xác tín của mình: con chẳng là gì
cả mà Chúa là tất cả”
“Chúng ta cám ơn nhau, đó là điều phải lẽ vì ta không
thể dửng dưng được trước bao nhiêu tấm lòng. Nhưng các con cũng phải hiểu rằng
linh mục chỉ là máng xối chuyển ơn Thiên Chúa đến cho các con, vì vậy Đấng duy
nhất các con cần nhớ ơn mãi và gìn giữ trong lòng mình để Người gìn giữ các
con, đó là Thiên Chúa và cụ thể là Chúa Giêsu”
Phải chăng đó là một cảm nhận về Một Thiên Chúa
cho đi đến cùng. Tình yêu cho đến cùng là Tình Yêu đã chết trên Thập Giá, là
Tình Yêu có tên goị là Giêsu. Giêsu, Người đã và đang chết cho anh cho tôi và
cho moị người từ thế hệ này đến thế hệ khác. Danh xưng của Người làm run rẩy
đôi môi của thế trần vì Tình Yêu Người quá lớn lao, quá ngập tràn.
Giêsu, tôi tin Người là Đấng hằng sống, Đấng Hằng
sống trong bao nhiêu tâm hồn sống yêu thương và đang tạo cho con người những
điều kiện sống xứng đáng với phẩm giá và tôi tin rằng Người cũng đang sống
trong tôi, nếu tôi biết sống tốt hơn, biết quảng đại hơn trong yêu thương chia
sẻ với mọi người.
Giêsu, tôi tin Người là Thiên Chúa Tình Yêu, một
Tình Yêu bày tỏ cho đến tận cùng bằng cái chết trên Thập Giá, Tình Yêu là tiếng
nói cuối cùng cho mọi trăn trở, chiến thắng và đè bẹp mọi thế lực của sự dữ,
bởi vì quyền năng của Tình Yêu thể hiện là tha thứ và đón nhận tất cả.
Những ngày mùa của gặp gỡ với Giêsu, đổi thay bao
tấm lòng, dạt đi bao nhiêu ích kỷ, bỏ đi bao nhiêu đam mê tội lỗi để sự sống
khát khao hơn, đầy tràn hơn và tôi goị Danh Giêsu, Người đã chết cho tôi.
LM
Giuse Hoàng Kim Toan.
Có một bài thơ của một tác giả vô danh mà Hồng Y
Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý nhất và thường
trích dẫn trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:
Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời:
"Không". Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi
mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.
Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi
được lành lặn và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng tinh thần mới
lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa
đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng kiên nhẫn là trái của thử thách.
Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa
đã trả lời: Không". Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc
hay không là tùy tôi.
Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa
đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ
cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.
Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả
lời: "Không". Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những
vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.
Tôi đã hỏi: "Liệu Ngài có yêu tôi không"
và Ngài đã trả lời rằng: "Có". Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi
Người Con Một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên
Đàng vì tôi đã tin.
Tôi đã xin Chúa giúp tôi yêu mến tha nhân như Ngài
yêu thương tôi và Chúa nói: "Cuối cùng con đã xin đúng điều ta chờ
đợi".
Nhìn lên thập giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi
để tin nhận rằng Thiên Chúa đã yêu thương con người, Ngài đã yêu thương đến độ
đã ban Người Con Một của Ngài cho thế gian. Tình Yêu của Thiên Chúa nhiệm màu
thẳm sâu đến độ sự thất bại, cái chết ô nhục đã trở thành Một Dấu Chứng.
Tình yêu ấy nhiệm màu thẳm sâu đến độ ngay cả khi
Thiên Chúa xem ra nói không với chúng ta, Ngài vẫn yêu thương chúng ta. Ngài
nói không khi chúng ta xin được khỏe mạnh, và bệnh hoạn vẫn bám lấy chúng ta.
Ngài nói không khi chúng ta xin được thành công và thất bại lại đến với chúng
ta. Ngài nói không khi chúng ta xin được cơm bánh hằng ngày và đói khổ lại cấu
xé chúng ta... Qua những cái không ấy, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương chúng
ta...
Xin cho chúng ta cảm nhận được tình yêu ấy mỗi khi
chúng ta nhìn lên cái chết ô nhục của Người Con Một Thiên Chúa trên thập giá.
Và cũng giống như Người Con Một ấy, xin cho chúng ta vẫn tiếp tục dâng lời chúc
tụng ngay giữa niềm đau tưởng chừng như không còn chịu đựng nổi. Và giữa trăm
nghìn đắng cay chua xót, xin cho chúng ta cũng được tiếp tục thốt lên lời xin
tha thứ như Ngài... Mãi mãi, xin cho chúng ta luôn phó thác như Ngài.
Sách
Lẽ Sống, Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
Biết tận hưởng những niềm vui nhỏ trong cuộc sống:
đó là một trong những bí quyết của hạnh phúc.
Người Nhật Bản thường kể câu chuyện như sau: Một người đàn ông nọ đi qua một
cánh đồng, thình lình bị cọp đuổi... Anh ta chạy bán sống bán chết mà vẫn không
tìm ra chỗ dung thân. Anh chạy mãi để rồi cuối cùng thấy mình đứng bên bờ vực
thẳm. Phía sau lưng, con cọp vẫn không buông tha. Không còn biết làm gì nữa,
người đàn ông phải lấy sức để đu lên một cành cây bắc qua vực thẳm. Nhìn xuống
dưới thung lũng, anh ta lại thấy một con cọp khác cũng đang nằm chờ chực. Người
đàn ông đáng thương chỉ còn niềm hy vọng duy nhất: đó là nằm chờ đợi cho đến
khi hai thú vật mệt mỏi bỏ đi... Chờ đợi trong lo sợ vẫn là cực hình lớn lao
nhất đối với con người.
Giữa lúc anh ta đang phải chiến đấu với sợ hãi và
mệt mỏi, thì tình cờ bỗng có hai con chuột bỗng từ đâu xuất hiện trên chính
cành cây anh đang đu vào. Hai con vật bắt đầu gặm nhấm lớp vỏ xung quanh cành
cây. Bình thường, chuột là một trong những loài thú mà anh gớm ghiếc nhất vì sự
dơ bẩn của nó. Tiếng kêu của nó cũng là một âm thanh làm cho lỗ tai anh khó
chịu. Thế nhưng, trong cơn sợ hãi tột cùng này, người đàn ông bỗng nhìn thấy hai
con chuột thật đáng yêu. Những hàm răng mũm mĩm của chúng trông dễ thương làm
sao! Tiếng kêu của hai con vật cũng trở thành một âm thanh êm dịu hơn tiếng gầm
thét của hai con cọp.
Giữa lúc anh đang theo dõi từng động tác của hai
con chuột, thì một con chim bỗng từ đâu bay lại, thả rớt trên cành cây một trái
dâu rừng. Anh đưa tay nhặt lấy trái dâu và thưởng thức hương vị ngọt ngào của
trái rừng bỗng nên thơ đáng yêu lạ lùng.
Thiên Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh
phúc và hạnh phúc ngay từ trên cõi đời này. Do đó, hạnh phúc không chỉ đến
trong cuộc sống mai hậu, hạnh phúc không hẳn nằm ở ngoài tầm tay với con người.
Kitô giáo không chỉ hướng chúng ta đến hạnh phúc đời sau, nhưng còn mời gọi
chúng ta hưởng niềm hạnh phúc ấy trong cõi đời này.
Mang lấy thân phận con người, nhập cuộc vào trần
gian này, Chúa Giêsu như mang hạnh phúc Thiên Đàng đến với con người. Ngài mời
gọi chúng ta hưởng niềm hạnh phúc ấy, Ngài nói với chúng ta rằng cuộc sống trần
gian này là một cuộc đời đáng sống. Chấp nhận cuộc sống, chấp nhận chính bản
thân, chấp nhận ngay cả những nghịch cảnh trong cuộc sống: đó chính là bí quyết
của hạnh phúc trên đời này.
Bí quyết của hạnh phúc cũng chính là biết đón nhận
những niềm vui nhỏ trong cuộc sống mỗi ngày. Có những ngày tù đày, chúng ta mới
thấy được giá trị của hai chữ tự do. Có sống xa gia đình, chúng ta mới nhung
nhớ những ngày sống bên những người thân. Có những lúc nằm quằn quại trên
giường bệnh, chúng ta mới thấy được giá trị của sức khỏe... Cuộc sống của chúng
ta tràn ngập những niềm vui nhỏ mà chỉ khi nào mất đi, chúng ta mới cảm thấy
luyến tiếc.
"Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống": đó là lời kêu gọi Chúa Giêsu
không ngừng nhắn gửi cho chúng ta khi Ngài mời gọi chúng ta chiêm ngắm hoa huệ
ngoài đồng và chim chóc trên rừng... Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống có nghĩa
là đón nhận từng phút giây trong cuộc sống với cảm mến và hân hoan. Hãy quẳng
gánh lo đi và vui sống cũng có nghĩa là biết nhìn thấy xuyên qua những mất mát,
thua thiệt, và ngay cả tội lỗi, bàn tay quan phòng nâng đỡ của Chúa... Chúa
Giêsu không bao giờ loan báo cái chết một cách riêng rẽ, Ngài luôn gắn liền nó
với sự Phục Sinh.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân
Một người Ả Rập nọ có một con ngựa rất đẹp... Ai
thấy cũng gợi lòng tham muốn. Một người láng giềng tìm đủ mọi cách để mua cho
kỳ được con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một mực từ chối. Không còn biết làm cách
nào để thuyết phục chủ nhân, người đó đành phải nghĩ ra mưu kế để chiếm đoạt.
Biết người chủ ngựa thường hay đi qua sa mạc, hắn
mới cải trang thành một người hành khất nằm rét run bên vệ đường. Người chủ
ngựa là một người tốt bụng, gặp bất cứ ai hoạn nạn cũng đều ra tay cứu giúp.
Vừa thấy người hành khất, người đó cảm thấy thương hại, mới đề nghị trở về một
quán trọ để săn sóc.
Khi người chủ ngựa vừa mở miệng đề nghị, thì tên
bất nhân mới than thở: "Đã mấy ngày nay, tôi không có được một hạt cơm
trong bụng, lấy sức đâu để leo lên ngựa". Nghe thế, con người tốt bụng
xuống ngựa để giúp người hành khất leo lên lưng ngựa. Nhưng vừa leo lên lưng
ngựa, tên bất lương hiện nguyên hình... Hắn giựt dây cương và thúc vào hông
ngựa mà chạy... Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết nhìn theo mà hối tiếc!
Nhưng ông cũng cố gắng chạy theo và nói với tên bất lương như sau: "Ngươi
đã ăn cắp con ngựa của ta. Nhưng ta sẵn sàng bỏ qua cho. Ta chỉ xin ngươi một
điều là đừng bao giờ kể cho bất cứ ai nghe mưu mẹo ngươi đã dùng để cưỡng chiếm
con ngựa của ta. Một ngày nào đó, sẽ có những người bệnh thật sự nằm rên rỉ bên
vệ đường và kêu cầu sự giúp đỡ. Ta e ngại rằng sẽ không còn ai dám dừng lại để
cứu giúp kẻ hoạn nạn nữa".
Dè dặt, thủ thế, nghi kỵ có lẽ là thái độ thường
tình của tất cả những ai đang sống dưới chế độ độc tài. Lừa lọc, phản bội, tố
cáo lẫn nhau đã khiến cho lòng người mỗi ngày một thêm khép kín... Sợi dây
chuyền của khép kín mỗi lúc một dài ra và quấn lấy con người.
Mỗi một hành động xấu, trong dây chuyền của tình
liên đới, đều gia tăng đau khổ cho người khác. Khi tôi lừa đảo, không những
hành động của tôi chỉ trực tiếp hãm hại một vài người có liên hệ, nhưng nó cũng
góp phần giảm thiểu niềm tin của không biết bao nhiêu người xung quanh. Khi tôi
bạo động, không những tôi chỉ xúc phạm đến người trong cuộc, nhưng hành động
của tôi cũng xóa mờ đi phần nào lòng tự ái của nhân loại... Tôi là một phần của
nhân loại. Cả nhân loại sẽ đau đớn rên rỉ vì một vết thương của tôi cũng như vì
một nhát gươm của tôi.
Người Kitô luôn được mời gọi để nhìn nhận hình ảnh
của Chúa nơi mọi người và đón nhận mọi người như anh em của mình. Trong cái
nhìn ấy, cuộc sống của chúng ta phải luôn hướng đến người anh em của chúng ta:
niềm đau của người anh em cũng chính là niềm đau của chúng ta, hạnh phúc của
người anh em cũng chính là hạnh phúc của chúng ta.
Sách
Lẽ Sống - Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
46. Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn
VietCatholic News(09/10/2001).
Thời Cách Mạng Pháp 1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả
những gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân
có muốn từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phác đã trả lời
như sau: "Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi
cầu nguyện".
Tự đáy tâm hồn mình, con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu
nguyện, dưới hình thức này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta
có thể trói buộc tay chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con
người, nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.
Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác
vì bệnh tật, đau đớn hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm
hồn con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên
mọi thử thách và chết chóc.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic News(28/09/2001).
Theo khuynh hướng tự nhiên, có lẽ ai trong chúng ta cũng thích dựa theo đám
đông để hành động.
Chúng ta thử quan sát trong sự đi lại trong các thành phố. Cũng như xe cộ,
khách bộ hành cũng phải tuân theo đèn xanh, đèn đỏ. Những buổi chiều khi tan
sở, người ta thường thấy các xe cộ nối đuôi nhau ở các ngã tư. Đối lại với một
chuỗi dài của những xe cộ, người ta cũng thấy lố nhố cả một đoàn người đang chờ
đèn xanh để qua đường.
Quan sát cho kỹ, thỉnh thoảng người ta thấy một điều rất buồn cười, nhưng cũng
rất bình thường: nếu có một người trong đám bộ hành này, vội vàng vì công việc
hoặc không đủ kiên nhẫn, đã lợi dụng lúc vắng xe để băng qua đường bất chấp đèn
đỏ, thì lúc đó, một số người trong đám đứng đợi cũng sẽ làm theo, nghĩa là cũng
sẽ băng qua đường ngay giữa lúc đèn còn đỏ... Những người đi theo này có lẽ
không nhìn thấy những dấu hiệu của luật lệ đi đường, mà chỉ làm theo người
khác. Đối với những người này, dấu hiệu để băng qua đường này không phải là đèn
xanh, mà là gương của người khác.
Trong cuộc sống hằng ngày cũng thế, nhiều người trong chúng ta có lẽ không hành
động, không cư xử theo những dấu hiệu, theo những chỉ dẫn của chân lý, mà có lẽ
theo gương kẻ khác nhiều hơn. Người ta làm sao, tôi làm vậy! Đó là lý luận
thông thường của chúng ta. Như thế người vượt đèn đỏ để băng qua đường chỉ làm
một hành động cá nhân cho riêng mình, mà còn trở thành dấu hiệu để cho không
biết bao nhiêu người làm theo.
Không ai có thể tự phụ sống cho riêng mình mà hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến
người khác. Bằng lời nói hay hành động, tất cả mọi hành xử của chúng ta đều gây
một chấn động nào đó với người khác. Một cách nào đó, chúng ta không sống như
một hòn đảo, mà là một dấu hiệu đối với người khác.
Riêng với những môn đệ của Đức Kitô, thì vai trò dấu hiệu ấy càng hiển nhiên
hơn. Thật thế, Chúa Giêsu đã quả quyết: "Các con là muối đất, các con là
ánh sáng thế gian".
Ước gì cuộc sống chứng ta của bác ái, của nhẫn nhục, của tha thứ, của quảng
đại, của phục vụ và của sự cần kiệm liêm chính mà người Kitô luôn phải thể
hiện, có sức trở thành dấu hiệu của chân lý, của Sự Sống. Và để trở thành dấu
hiệu cho người khác, người Kitô cần phải luôn hướng nhìn về Đấng là Đường, là
Sự Thật và là Sự Sống. Sống theo Ngài, cư xử như Ngài, người Kitô cũng sẽ lôi
cuốn nhiều người đến với Ngài.
Sách Lẽ Sống Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic News(29/09/2001).
"Bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa", lời kêu gọi này của Chúa Giêsu có
thể thực hiện được trong xã hội dư dật ngày nay không? Như một dụ ngôn trong
Phúc Âm, chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện sau đây của tiến sĩ Marcello Candia,
người đã dâng cúng tất cả tài sản để xây dựng một bệnh viện giữa khu rừng già
Amazone bên Ba Tây và sinh sống tại đó như một người dân nghèo.
"Khi còn ở bậc trung học, tôi là thành phần của một nhóm trẻ sinh hoạt
dưới sự hướng dẫn của một cha dòng Phanxico. Chúng tôi thường đi thăm các gia
đình nghèo tại ngoại ô Milano... Sự chú ý đến người nghèo đã làm nảy sinh ước
muốn truyền giáo nơi tôi.
Một hôm thầy Cêciliô, người coi cổng nhà dòng đã nhờ tôi phát thức ăn cho người
nghèo... Trên tường nơi phòng ăn dành cho người nghèo có treo một tấm hình của
cha Daniele Samarate, một vị thừa sai của dòng đã chết vì bệnh cùi sau một thời
gian phục vụ người thổ dân tại một miền ở Ba Tây... Mỗi lần phát thức ăn cho
người nghèo, tôi đều nhận ra hình ảnh đầy đau khổ của ngài. Dần dà, hình ảnh đó
quen thuộc đến nỗi trong bất cứ người nghèo nào, tôi cũng nhận ra hình ảnh
ấy... Từ đó, ước muốn phục vụ những người cùi đã nảy sinh trong tôi".
Sau khi tốt nghiệp đại học, Macello đã được cha gửi đi công cán tại nhiều nước
nghèo trên thế giới. Trong dịp ghé thăm một vùng nghèo tại Amazone bên Ba Tây,
Macello đã trở về với quyết định bán hết tất cả tài sản và rút về đây để phục
vụ người nghèo. Với tài sản do gia đình để lại, Macello đã xây cất một bệnh
viện với 120 giường và được trang bị với đầy đủ dụng cụ của một trung tâm y tế
đa khoa.
Macello đã giải thích về việc làm của mình như sau: "Người ta nói với tôi
rằng tốt hơn hãy giúp những người nghèo ở xứ sở của mình trước đã. Tôi xin trả
lời rằng điều quan trọng là mỗi người chúng ta biết làm một chút gì cho những
người đang đau khổ, bất cứ họ đang ở đâu... Niềm vui lớn nhất của tôi là thấy
nhiều người, thụ động và cam chịu số phận, đã biết cởi mở".
Sự trưởng thành của Giáo Hội được thể hiện qua ý thức mỗi lúc một sâu sắc của
người giáo dân về vai trò của mình. Đã qua rồi cái thời mà người ta cho rằng
Giáo Hội là chuyện của các giám mục, linh mục. Đã qua rồi cái thời mà người ta
cho rằng nên thánh là chuyện của vị giáo hoàng, các giám mục, linh mục và tu
sĩ... Không ai chiếm giữ độc quyền để nên thánh một mình. Nên thánh là ơn gọi
chung cho tất cả mọi người đã chịu Phép Rửa... Do đó, tất cả những lời khuyên
trong Phúc Âm đều có giá trị cho tất cả mọi người theo Chúa Kitô. "Hãy về
bán hết mọi sự, phân phát cho người nghèo khó và trở lại với Ta". Mệnh
lệnh này không chỉ ngỏ với một số thành phần ưu tuyển trong dân Chúa, nhưng là
lệnh truyền cho tất cả mọi người.
Chúng ta không được sống trong một xã hộ dư dật. Nghèo đói là một sự dữ mà
Thiên Chúa không bao giờ muốn cho con người rơi vào. Tuy nhiên, bên cạnh sự
nghèo đói cơm bánh, còn có một sự nghèo đói còn đáng khiếp sợ hơn, đó là: nghèo
đói tình thương... Có biết bao người đang chờ một ít cơm thừa cá cặn từ bàn ăn
của chúng ta? Có biết bao nhiêu người đang mong mỏi một nghĩa cử yêu thương của
chúng ta?
Thế giới cần được biến đổi không chỉ bằng của cải vật chất, nhưng bằng chính
tình thương mà con người biết san sẻ với nhau. Sự san sẻ đó là: dù sống trong
xã hội nào, dù trải qua hoàn cảnh nào, mọi người Kitô chúng ta đều có thể và
phải làm được. Và đó cũng là bí quyết duy nhất để giúp chúng ta nên thánh.
Sách Lẽ Sống, Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
VietCatholic News(24/09/2001).
Cầu nguyện có nghĩa mở rộng bàn tay trước Thiên Chúa. Có nghĩa buông thả từ từ
sự căng thẳng đang nắm chặt tay lại và chấp nhận cuộc sống với sự sẵn sàng ngày
càng hơn, không như của cải phải bảo vệ nhưng là ơn phúc lãnh nhận. Vì vậy,
trên hết, cầu nguyện là cách sống cho phép bạn tìm yên tĩnh giữa thế giới nơi
bạn mở tay ra đón nhận lời hứa của Chúa và tìm kiếm hi vọng cho chính bạn, cho
đồng loại và toàn thể cộng đoàn bạn đang sống. Khi cầu nguyện, bạn gặp Chúa
trong cơn gió nhẹ, trong cơn muộn phiền và niềm vui của người bên cạnh, và
trong nỗi cô đơn của chính tâm hồn bạn.
Cầu nguyện hướng dẫn bạn thấy con đường mới và nghe giai điệu mới trong không
gian, cầu nguyện là hơi thở của cuộc sống bạn làm cho bạn có sự tự do mới để đi
hay ở chỗ bạn thích và tìm ra nhiều dấu hiệu cho thấy con đường dẫn đến mảnh
đất mới. Cầu nguyện không những chỉ là phần cần thiết trong chương trình hàng
ngày của một người kitô giáo hay nguồn trợ lực trong lúc cần thiết, cũng không
giới hạn trong buổi sáng chủ nhật hay như một khung cảnh cho bữa ăn. Cầu nguyện
là sống, một đan sĩ Biển Đức sống tại Ấn Độ viết:
"Không có những nhà chiêm niệm bán thời gian cũng
như không có Kitô hữu bán thời gian, làm người bán thời gian. Từ ngày ta bắt
đầu tin vào Chúa Kitô và nhận ngài là Chúa, không có lúc nào thức ngủ, đi,
ngồi, làm việc, học hành, ăn, chơi mà không được đánh dấu bằng hành động của
Chúa gìn giữ ta, mà không được sống nhân danh Chúa Kitô theo linh ứng của Thánh
Thần."
(Prayer by Abhishiktenanda, Delhi. 1967)
Vì thế, cuộc sống cầu nguyện là cuộc sống mở rộng bàn tay trong đó bạn không
xấu hổ vì sự yếu đuối nhưng nhận ra là hoàn hảo hơn cho con người khi để cho
người khác hướng dẫn hơn là nắm giữ mọi sự trong tay mình.
Chỉ trong cuộc sống như thế, lời kinh mới có ý nghĩa. Lời kinh trong nhà thờ,
nơi bàn ăn hay ở trường học chỉ là một chứng tá cho điều chúng ta muốn trở
thành trong cả cuộc sống. Lời cầu nguyện như thế chỉ nhắc lại trong tâm trí là
cầu nguyện là sống và mời gọi ta làm cho nó thành một thực thể còn lớn lao hơn.
Như vậy có nhiều cách cầu nguyện như có những giây phút trong cuộc sống. Đôi
khi bạn tìm kiếm nơi yên tĩnh và bạn muốn ở một mình, đôi khi bạn tìm kiếm bạn
bè và bạn muốn ở với nhau. Đôi khi bạn muốn cuốn sách hay âm nhạc. Đôi khi bạn
muốn hát lên với hàng trăm người, đôi khi chỉ thì thầm với ít người. Đôi khi
bạn muốn nói lên bằng ngôn từ, đôi khi chỉ bằng sự im lặng hố thẳm.
Trong tất cả những lúc đó, bạn dần dần làm cho cuộc sống thành lời cầu nguyện
hơn và bạn mở tay cho Chúa hướng dẫn cả đến chỗ bạn không muốn tới.
Lm. Ngô Tường
DZũng, Texas, USA.
50. Đi Một Ngày
Đàng, Học Một Sàng Khôn
VietCatholic News(27/09/2001).
Cách đây không lâu, một cặp thanh niên người Pháp đã đến Phi Luật Tân bằng
chiếc xe đạp riêng của họ. Nước Phi là quốc gia thứ 31 họ dùng xe đạp để đi
tham quan. Trong vòng 7 năm qua, họ đã không ngừng di chuyển một cách thích thú
trên hầu hết các nước và đã học hỏi nhiều kinh nghiệm khác nhau. Họ đã bỏ ra 3
năm để đạp từ Pháp xuyên qua đến Thái Lan. Họ dành một năm làm việc trong các
trại tị nạn dọc biên giới Thái, chín tháng để đi xuyên qua Trung Hoa Lục Địa,
sáu tháng để tham quan Nhật Bản, Đại Hàn và Đài Loan.
Người con gái tên là Claude đã giải thích mục đích của cuộc mạo hiểm như sau:
"Kể từ thời của Marco Polo, con người không ngừng đi thám hiểm thế giới
với nhiều lý do và với nhiều phương tiện khác nhau. Trong thời đại du hành vũ
trụ này, việc đi vòng quanh thế giới bằng phương tiện thô hiển như xe đạp vẫn
không ngừng thu hút nhiều người... Mạo hiểm như thế để giúp thay đổi cuộc sống
của chúng tôi, để cùng trải qua một kinh nghiệm quá lớn lao".
Cuộc mạo hiểm nào cũng thích thú và nguy hiểm. Claude kể lại rằng tại Thái Lan,
họ đã bị hai tên cướp chận đường toan hành hung. Tại Trung Đông, họ đã chứng
kiến cảnh chết chóc hằng ngày. Và nhất là tại Ấn Độ, sau khi đã trải qua vài
tuần lễ tại một vài trại cùi, họ đã ghi lại trong các sổ ghi niệm của các trung
tâm này như sau: "Sau khi đã đến đây, chúng tôi cảm thấy không còn gì để
than phiền trong cuộc sống này nữa".
Có lẽ đó là kinh nghiệm lớn lao nhất mà những người trẻ này đã cảm nhận được
trong cuộc sống. Chạm chán với bao nguy hiểm, sờ được từng nỗi đau khổ, cảm
nghiệm được niềm vui của từng dân tộc khác nhau... Tất cả những kinh nghiệm ấy
cho họ thấy rằng: người ta có thể vượt qua được tất cả mọi hàng rào ngăn cách
để đến với nhau và nơi nào con người cảm thấy mình đang sống trong gia đình,
thì đó là nhà của họ, là quê hương của họ.
Đời là một chuyến đi... Không những đi một ngày đàng, học một sàng khôn, mà đi
để tiến gần đến mục đích của cuộc sống.
Tổ phụ Abraham đã được Chúa gọi để bỏ quê hương, bỏ tất cả mọi sự và lên đường
đến một nơi vô định. Dân Do thái đã được Chúa mời gọi rời bỏ Ai Cập để tiến về
đất hứa.
Ra đi là chết trong lòng một ít. Cuộc ra đi nào cũng đòi hỏi con người phải dứt
khoát, có khi phải từ bỏ những gì mình yêu thích nhất trong cuộc đời. Abraham
đã từ bỏ quê hương. Có gì quý giá và thân yêu bằng nơi chôn nhau cắt rún...
Tiên tri Êlisê đã phải giết bò và dùng cày để nướng thịt bò trước khi lên đường
theo tiên tri Elia... Các môn đệ của Chúa Giêsu đã bỏ nghề nghiệp, vợ con, tất
cả mọi sự để lưu lạc nay đây mai đó với Chúa Giêsu. Cuộc ra đi nào cũng là một
mất mát... Nhưng có mất mát mới tìm lại được những gì quý hóa hơn.
Giáo Hội đã được định nghĩa như dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian hướng về
Thiên Quốc. Mỗi người Kitô được mời gọi để tham dự vào cuộc lữ hành này.
Họ không trẩy đi cô độc một mình. Nhưng bên cạnh họ, từng đoàn người tiến bước
trong hân hoan. Người ta không tiến bước trong buồn bã bởi vì đích điểm đang
chờ đợi họ là cả một khung trời của an vui, hạnh phúc...
Cuộc lữ hành nào cũng đầy cam go. Nhưng người Kitô không tiến bước với đôi tay
trơ trọi. Hành trang của họ chính là Sức Sống mà Đức Kitô hằng thông ban cho
họ. Cũng giống như người Do Thái trên đường trở về đất hứa luôn được nuôi dưỡng
bằng manna và được hướng dẫn bởi cột lửa giữa đêm thâu, người Kitô cũng tiến
bước bằng sức mạnh của Chúa Kitô.
Sách Lẽ Sống Ban
Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu
51. Lời Trăn Trối
Của Người Mẹ
Thời cách mạng Pháp, người ta hay nhắc đến một khuôn mặt dữ tợn, chuyên săn
lùng các linh mục: đó là đại úy Laly.
Ông đã gia nhập vào đảng Jacobins đi khắp nơi để reo rắc kinh hoàng cho dân
chúng. Nhiều vị linh mục đã kín đáo đến khuyên nhủ để lôi kéo ông ra khỏi tội
ác. Nhưng tất cả mọi cố gắng của người khác đều vô ích. Con người độc ác đó chỉ
đáp lại bằng lãnh đạm và những lời lẽ thô tục.
Thế nhưng một hôm, khi mọi người tưởng như không còn một chút hy vọng, Laly đã
lần mò đến một linh mục để xin xưng tội và hòa giải với Giáo Hội. Sau đó ông đã
thú nhận: "Cả đời, ngày nào tôi cũng đọc một kinh Kính Mừng, theo lời trăn
trối của mẹ tôi trước khi chết".
Có những câu ca dao, có những bài hát, có những bài học làm người, chúng ta
tiếp thu ngay khi còn ngồi trên gối mẹ. Trí óc non dại của chúng ta chưa đủ khả
năng để lĩnh hội ý nghĩa sâu xa của những bài học đó. Nhưng dần dà với thời
gian, khi bắt đầu chúng ta biết suy nghĩ, những bài học đó trồi lên một cách
trong sáng trong kiến thức của chúng ta. Có lẽ người mẹ nào cũng hiểu được giá
trị của câu: "Dạy con từ thuở còn thơ...".
Mẹ Maria, Hiền Mẫu của chúng ta, vừa là một mẫu gương vừa là một nhà giáo dục
tuyệt hảo trong Đức Tin. Lời kinh dâng Mẹ mà chúng ta bập bẹ khi vừa biết nói
là bài ca dao đẹp nhất không ngừng ngân vang trong cuộc sống Kitô chúng ta. Có
thể, đôi lúc chúng ta cũng ngâm nga một cách máy móc, nhưng Mẹ vẫn có đó và Mẹ
vẫn đeo đuổi, ấp ủ chúng ta trong Tình Yêu bao la của Mẹ.