CHẾT,
ĐIỀU
KIỆN CHUYỂN TIẾP SỰ SỐNG
S ự
sống giữ vai trò quan trọng chẳng những bậc nhất mà còn là căn bản của cuộc đời
vì nếu không có sự sống, chẳng có gì đáng được đặt ra bởi sẽ không có nhận
thức, không sự tốt lành nào có thể được đếm xỉa tới. Thế nên đã có câu nói:
"Con chó sống còn hơn con sư tử chết" (GV 9:4). Sự sống con người
chất chứa đầy những bí nhiệm của nó vì mặc dầu xác thân mỗi người được sinh ra
từ cha mẹ nhưng họ lại không thuộc về cha mẹ. Sự sống không phải là món quà
hoặc thành quả của tình yêu đôi lứa mà đôi lứa chỉ là phương tiện cho sự sống
xác thân được truyền lại nơi mỗi con người. Chính Thiên Chúa, Đấng Tối Thượng
ban phát sự sống (2Mc 7:22f) và cũng chính Ngài nắm giữ vận mạng con người (Dt.
32:39; 1S 2:6). Bình thường, sự sống được hiểu theo nghĩa có sự hiện hữu nơi
cuộc đời ở trái đất, hoặc một hành tinh nào khác. Xét về mặt siêu nhiên, sự
sống chính là sự vĩnh hữu của linh hồn; linh hồn này được hiện hữu cùng với
thân xác nơi trần thế một giai đoạn thời gian và nối tiếp bằng cái chết của xác
thân để trở về cõi vô hình, vĩnh cửu, hưởng phần gia nghiệp Chúa dành sẵn cho
những ai sống chứng nhân Nước Trời, sống đức tin, sống rao giảng Chúa Kitô Đấng
Cứu Độ nhân loại: "Và phàm ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ,
hay con cái, hay ruộng nương, vì danh Ta, thì sẽ lĩnh hơn gấp bội và được sự
sống đời đời làm cơ nghiệp" (Mt. 19:29).
Một
điều hơi lạ là Kinh Thánh nói về Thiên Chúa hiện diện nơi mỗi người, Chúa tạo
dựng con người theo hình ảnh của Ngài (KN. 1:27), nhưng trong kinh Tin Kính,
kinh tuyên xưng đức tin thì không thấy nói rõ ràng điều này, mà lại tuyên xưng
Thiên Chúa tạo dựng muôn vật hữu hình và vô hình, một cách bao quát hơn. Nơi
các tôn giáo khác cũng nói về một Thượng Đế hiện diện nơi con người, khác chăng
chỉ tùy lối diễn tả. Chẳng hạn, Ấn Giáo quan niệm rằng Đại Ngã (Thượng Đế) bao
gồm tất cả mọi người và mỗi người đều thuộc về Đại Ngã. Nhận ra bản ngã để từ
đó trở về trạng thái nguyên thủy, phần tử của Đại Ngã tức là vô vi, hợp làm một
cùng Đại Ngã, con người trở nên thần thông như Hóa Công. Phật Giáo nhìn sự hiện
hữu của xác thân con người như chiếc bóng, cuộc sống hiện thực nơi trái đất này
chỉ là những ảo ảnh giống như ảo giác của thể vía, vô ngã. Khi con người nhận
ra thực thể vô ngã của mình đó là ngộ, phát hiện tâm Chân Như, tâm Phật, tất
nhiên trở nên Phật, có nghĩa lúc đó tự giải thoát được những khổ ải sinh, bệnh,
lão, tử, tham, sân, si nơi cuộc đời, trạng thái này được gọi là Niết Bàn. Lão
Giáo cũng cùng mục đích muốn đưa con người tìm về bản thể tự nhiên bằng cách
thực hiện trong lối sống vô vi vì "Theo Lão Tử thì phải để cho con người
trở về với cái sống tự nhiên giản dị của họ..." (Lão Tử Tinh Hoa; Nguyễn
Duy Cần; Sống Mới,
Nhận
định như vậy, hai lối nhìn khác nhau về giá trị sự sống thường hay bị hiểu lẫn
lộn, một đàng nhìn cuộc đời con người với chiều hướng tâm linh, và đàng khác,
nhìn cuộc đời qua giá trị chỉ là sự hiện hữu của xác thân dầu được biện minh
bằng những lý lẽ liên quan đến thần linh. Trước hết, nếu quan niệm hoặc tin
thực rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi thì giai đoạn hiện hữu của xác thân
chỉ được coi như một phương tiện cho một mục đích cao cả hơn và như vậy dù sống
hay chết, chẳng có gì đáng cho con người phải e ngại; những danh vọng, chức
quyền v.v... đều là phù du nơi trạm hiện thân của phần tâm linh được thể hiện
bằng sự hiện hữu của thân xác con người. Nếu chỉ cho rằng chết là hết nên sự
sống của thân xác cao cả hơn hết mọi sự như con đẻ của cái nhìn một chiều về ý
niệm "Con chó sống còn hơn con sư tử chết" (GV 9:4) thì con người trở
thành nô lệ cho cuộc sống xác thân dẫu chối từ vô thần, và như vậy tiền tài,
danh vọng, chức quyền mới có giá trị và vị thế tuyệt đối nơi cuộc đời con
người. Phỏng câu Phúc Âm "Không ai có thể làm tôi hai chủ..." (Mt.
Mọi
người, dù sang, hèn, giầu, nghèo cũng nhận thấy mình mang một giá trị bắt nguồn
từ sự hiện hữu của xác thân, và nỗi thao thức về ý nghĩa cuộc đời đã được ban
cho luôn là khát vọng thúc đẩy con người tìm kiếm. Niềm thao thức này là điểm
đầu mối cho triết lý, và sự khát vọng tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời là cội nguồn
cho tôn giáo. Tuy nhiên, môi trường sống ảnh hưởng tâm trí cũng như quan niệm
của con người để tạo nên những nhận định khác nhau. Bằng chứng hiển nhiên ai cũng
có thể nhận thấy là những dân tộc khác nhau có những ngôn ngữ khác nhau. Chính
vì quan niệm và nhận định khác nhau, người ta có phản ứng hoặc cách sống khác
nhau để rồi từ đó phát sinh nhiều chiều hướng cách biệt. Có lẽ ngày nay không
ai thấy sự khác biệt giữa những tiếng gọi hoặc chữ viết Chúa, God, Thượng Đế,
Dieu, Dei, Thượng Chủ, Hóa Công, v.v..., nhưng khi đặt vấn đề quan niệm về
Thượng Đế thế nào thì chắc chắn hai người cùng tôn giáo sẽ có ít nhất vài điểm
bất đồng. Chẳng hạn quan niệm về Chúa, Cha Nhân Từ, thật khó lòng được chấp
nhận đối với một người đã phải trải qua những kinh nghiệm khốn khổ trong thời
đã qua vì bị người bố đẻ lạm dụng... Chính vì vậy, biết bao lối nhìn và quan
niệm khác nhau đã được đưa ra làm mẫu mực cho cùng một mục đích bởi bị tùy
thuộc kinh nghiệm sống, và cũng từ đó nhiều đường hướng tiến về một nguồn gốc
phát sinh đã mang những tính chất đối nghịch do ảnh hưởng quan niệm khác biệt.
Hơn nữa, những ý niệm, quan niệm, hay niềm tin thường hay bị hiểu lầm do
"ngữ bất tận ngôn và ngôn bất tận ý." Chẳng hạn người ngoài Công
Giáo, và nhiều khi chính ngay người Công Giáo đều thắc mắc về tước vị được
tuyên xưng Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Do không hiểu biết ý nghĩa, người ta
chỉ đặt vấn đề Thiên Chúa là đấng tối thượng, vô thủy vô chung, tự trước vô
cùng, sao có thể gọi là Mẹ Thiên Chúa? Có thể đó cũng là lý do mà Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô đệ II lấy tiêu đề "Mother of the Redeemer" cho thư
chung dùng Kinh Thánh nói về Đức Maria của ngài. Những kinh nghiệm đơn giản này
chứng tỏ phần nào tại sao có nhiều quan niệm khác biệt về giá trị cuộc sống con
người mặc dầu nhận thức chung vẫn là sự sống con người có giá trị riêng không
lệ thuộc ý muốn người được sinh ra và mang mục đích tối thượng là tiến dần về
điểm hòa nhập với Thượng Đế. Tuy thế, cũng phải nói thêm một khía cạnh và đó là
càng những người không nhận ra giá trị và mục đích của cuộc sống thì lại càng
tha thiết với sự hiện hữu của xác thân có lẽ vì cho rằng chết đi là hết và mất
tất cả những gì thuộc về mình.
Xét như
vậy, không lạ gì câu nói của thánh Phao Lô trong thư thứ hai gửi tín hữu
Côrintô "Ngài đã chết vì mọi người, để ai sống thì đừng còn sống cho mình
nữa, nhưng là cho đấng chết và sống lại vì họ" (2Côr. 5:15) bày tỏ đặc
tính chứng nhân thiết yếu của Kitô hữu. Đối với người Công Giáo, sự sống thể
xác là hồng ân Chúa ban cho để làm vinh danh Ngài và chết là trở về với Ngài.
Với sức riêng thuộc về bản ngã yếu hèn, con người không tự cứu để thoát khỏi
những tham, sân, si, nguy hại cho bản thể đích thực của mình dẫu nhận biết hay
không... được gọi tắt bằng tội tổ tông, Đức Kitô đã đến để cứu thoát con người
khỏi ách thống trị này. Đức Kitô rao giảng sự sống thần linh cho con người do
đó con người sống theo lời giảng dạy của Ngài tức là được sống "nhờ, với,
và trong Đức Kitô." Vì thế, Kitô hữu còn được gọi là chết cùng Đức Kitô
phần bản ngã yếu hèn của mình để được chia sẻ sự sống thần linh của Đức Kitô
trong đức tin nơi Ngài, và như vậy, Kitô hữu sống trong sự sống của Đức Kitô
như lời thánh Phao Lô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức
Kitô sống trong tôi. Đời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong
lòng tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi"
(Galat 2:20). Vì thế, Kitô hữu sống cho Chúa trong Đức Kitô (Roma 6:11; 1Cor
15:22; Eph 4:18; 2Tm 1:1; Tt 2:12); sống trong Đức Kitô là cuộc đời của họ
(Côlôsê 3:4). Nói như thế có nghĩa cuộc sống của Đức Kitô phải được thể hiện
nơi cuộc đời của Kitô hữu, "Mọi thời và khắp nơi, chúng tôi mang trong
thân mình chúng tôi cuộc tử nạn của Đức Giêsu, ngõ hầu sự sống của Đức Giêsu
cũng được hiện tỏ nơi mình chúng tôi" (2Côr. 4:10).
Hòa
nhập với sự sống thần linh, sự sống xác thân sẽ được nhận rõ không phải là cùng
đích cuộc đời bởi ai không phải qua cửa tử mà sự chết đã không phải là giới hạn
của đời sống tâm linh, nhưng ngược lại, nó chính là bước chuyển tiếp cho cuộc
sống vĩnh hằng. Con người có thể chết vì tiếng tăm, danh vọng, tiền tài thì
chết vì đức tin không phải là chuyện khó. Vấn đề còn lại chỉ là sự thực hiện
cuộc sống đức tin. Phỏng con người có tin nơi Chúa bằng tin vào sức mạnh của
tiền tài danh vọng hay không?
Lã Mộng Thường