Cầu
Nguyện
Trần Mỹ Duyệt
"Hãy
mang tồn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa. Vì chúng ta
khơng phải chiến đấu với những lực
lượng trần gian, nhưng là với những
quyền lực thần thiêng, với những kẻ
thống trị thế giới tối tăm, với
những thần linh thâm độc từ trên cao" (Ep
6,10-12)
Trong thế giới hơm nay, bằng những tư
tưởng và lối sống hiện sinh, bằng
những phát minh tân kỳ của khoa học với lối
giải thích mọi biến cố cuộc đời theo
khoa học thực nghiệm, Satan đang cố gắng làm
cho con người quên đi sự hiện diện của
Thiên Chúa và của hắn. Quên đi trận chiến đơi
khi âm ỷ, đơi khi sục sơi mãnh liệt; đơi khi
xuất hiện cơng khai, đơi khi vụt biến
đến nỗi con người tưởng như khơng
cĩ nĩ: Trận chiến tinh thần.
Do những địi hỏi của đời sống tự
nhiên và những thơi thúc của đời sống tâm linh,
người Kitơ hữu đang đứng giữa một
trận tuyến quyết liệt giữa Thiên Chúa và Satan,
giữa thiện và ác, giữa thiên đàng và hỏa
ngục. Cuộc chiến mà những kẻ tham chiến
khơng thể cĩ hành động và tư tưởng trung
lập.
Ðể chiến thắng cuộc chiến này, con
người phải dùng tới những vũ khí thần
linh và sức mạnh của lời cầu nguyện.
Nhưng cĩ bao giờ ta tự hỏi: "Tại sao tơi
phải cầu nguyện?"
Tại sao phải cầu nguyện
Ta phải cầu nguyện và cầu nguyện cách sốt
sắng, vì:
- Nếu khơng cầu nguyện ta sẽ khơng thể nào
chống trả được với ma quỷ là kẻ
thù, luơn tìm dịp để mong chiếm đoạt linh
hồn ta như Ðức Kitơ đã cảnh giác: "Các con hãy
tỉnh thức cầu nguyên kẻo sa chước cám
dỗ. Tinh thần mau mắn, nhưng xác thịt nặng
nề" (Mt 26,41).
Ngài cịn lưu ý Phêrơ: "Ma quỷ sàng sảy anh em như
sàng gạo" (Lc 22,34).
Cĩ lẽ vì cảm nghiệm được thế nào là
sự yếu đuối của con người
trước sức tấn cơng của ma quỷ qua kinh
nghiệm bản thân, nên sau này Phêrơ đã khuyến dụ
mọi người: "Hãy tiết độ và tỉnh
thức vì ma quỷ là kẻ thù của anh em khác nào như
sư tử gầm rống, quyện quanh kiếm tìm
Mồi" (1 Pr 5,8).
- Chính Chúa Cứu Thế cũng đã cầu nguyện. Ngài
cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc, và trước
bất cứ cơng việc gì trọng đại.
Phúc "m kể lại, trước khi bắt đầu
cuộc đời cơng khai hành đạo, Ngài đã lên
rừng vắng ăn chay và cầu nguyện 40 đêm ngày.
Trước khi bước vào đường khổ
nạn, chấp nhận những đau thương cùng
tột vì tội lỗi trần gian, Ngài đã cầu
nguyện sốt sắng trong vườn Cây Dầu:
"Trong cơn sầu thảm, Ngài cầu nguyện tha
thiết hơn, và mồ hơi trở nên như máu nhỏ
hạt xuống đất" (Lc 22,43-44).
Trước khi gục đầu tắt thở trên thánh
giá, Ðức Kitơ cũng đã lớn tiếng cầu
nguyện để phĩ dâng linh hồn mình lên Thiên Chúa Cha:
"Lậy Cha, Con phĩ linh hồn Con trong tay Cha" (Lc 23,46).
Quan trọng như vậy, nên các thánh nhân trổi
vượt về các trường phái tu đức khác nhau
như "ugutinơ, Tơma tiến sĩ, Gioan Thánh Giá. Các thánh
lập dịng như Ðaminh lập Dịng Giảng Thuyết,
Phanxicơ Assisi lập Dịng Anh Em Hèn Mọn, Inhaxiơ lập Dịng
Tên, Têrêxa Avila cải tổ Dịng Kín Camêlơ, Phanxicơ Salêsiơ Giám
Mục lập Dịng Chị Em Thăm Viếng, Anphongsơ Giám
mục lập Dịng Chúa Cứu Thế. Các Ngài cĩ thể châm
chước cho một tu sĩ khỏi phải ăn chay
hay khỏi phải tuân giữ một vài khoản luật
dịng khi cĩ những lý do cần thiết, nhưng khơng bao
giờ châm chước cho ai khỏi phải cầu
nguyện.
Theo Thánh Têrêxa Tiến sĩ Hội Thánh, nếu khơng cầu
nguyện thì khơng cần ma quỉ cám dỗ. Tự ta, ta
sẽ gieo mình xuống hỏa ngục.
Ích Lợi của cầu nguyện
Cầu nguyện chính là hơi thở, là sức sống
tinh thần của người Kitơ hữu. Nhưng tại
sao cầu nguyện lại trở thành quan trọng và
cần thiết? Ðĩ chính là vì mỗi khi cầu nguyện, là
một cơ hội để ta được gần
gũi với Thiên Chúa, và để Ngài ban cho ta những
ơn cần thiết cho phần rỗi đời
đời, cũng như cuộc sống trần gian
của ta, hoặc những người ta cầu nguyện
cho.
Ðể Chúa ban ơn
Cầu nguyện là máng chuyển ơn Thiên Chúa. Nếu
ơn Ngài như mưa sa, như nước nguồn luơn
ban phát cách rộng rãi cho mọi người, thì việc
cầu nguyện chính là những cái máng, những con kinh
rạch, những dịng suối, hoặc những sơng ngịi
để ta chuyển vận ơn Ngài vào trong linh hồn.
Ngồi ra, cịn cĩ những ơn cần thiết, đặc
biệt mà ta phải cầu xin Thiên Chúa mới ban cho. Thí
dụ, ta phải cầu nguyện cách tha thiết và
sốt sắng để tìm hiểu ý Chúa trước khi
chọn lựa bậc sống của mình hay ơn gọi
của mình: Hy sinh phục vụ Ngài trong đời
sống tu trì, sống đời hơn nhân, hoặc sống
đời độc thân giữa thế trần.
Như vậy, đủ để ta hiểu rằng
phải cầu nguyện, cầu nguyện luơn luơn, cầu
nguyện mọi ngày, mọi nơi, và mọi lúc. Vì:
"Khơng cĩ Cha, chúng con khơng làm được gì" (Ga
15,5).
Trong khi quỳ gối, chắp tay, ngửa mặt lên cùng
Thiên Chúa, ta sẽ thấy một điều rất chân
thật và cần thiết, là chỉ cĩ Ngài mới đáng
cho ta tin cậy. Chỉ cĩ Ngài mới là quyền phép.
Chỉ cĩ Ngài mới là hạnh phúc duy nhất và sau hết
của ta. Thánh "ugutinơ đã diễn tả mối thao
thức và gắn bĩ này khi cho rằng trái tim con người
chỉ được hạnh phúc sau khi đã tìm gặp
Chúa và yên nghỉ trong Thiên Chúa, vì chính Ngài đã tạo
dựng nên nĩ.
Thánh Phaolơ tơng đồ cũng nhắc nhở một
điều tương tự về mối tương
quan nhỏ bé của ta với Thiên Chúa, theo đĩ khơng ai
tự mình cĩ gì, được gì, nhưng là do lịng rộng
rãi Thiên Chúa yêu thương ban cho mà thơi: "Ai tưởng
mình đáng giá gì, người ấy lầm lạc và
ảo tưởng" (Gl 6,3).
Theo Thánh Basiliơ, tất cả mọi người: "Là
những hành khất của Thiên Chúa. Là những con nợ
tồn diện của Ðấng Tạo Hĩa" (Serm. 52).
Cũng trong thái độ khiêm tốn cầu nguyện, ta
cịn tìm ra chân lý này, là ơn Thiên Chúa thật sự cần
thiết để bảo vệ ta khỏi mọi cám
dỗ: "Chúng con hãy cầu nguyện để khỏi
phải sa chước cám dỗ" (Mt 26,41), cũng
như giúp ta tránh xa tội lỗi: "Hãy vào cửa
hẹp, đường rộng thênh thang đưa
đến hư hỏng" (Mt 7,13). Hơn thế
nữa, cầu nguyện cịn đáng Thiên Chúa cho những
ơn cần thiết trong những trường hợp
đặc biệt, mà chỉ cĩ ta trong những hồn cảnh
như thế mới cần tới.
Phép lạ Ðức Kitơ làm chữa lành người mù thành
Giêricơ, hoặc những phép lạ khác trên đường
truyền giáo của Ngài đều chỉ được
thực hiện khi người ta mở miệng van xin
Ngài: "Lậy Ngài Giêsu, con Ðavít xin thương xĩt tơi"
(Mc 10,47), hay: "Lậy Ngài, nếu Ngài muốn Ngài cĩ
thể chữa tơi khỏi" (Lc 5,12).
Những Kitơ hữu siêng năng cầu nguyện, và cầu
nguyện sốt sắng đều nhận ra và cảm
nghiệm rất rõ điều này, đĩ là Thiên Chúa
quyền phép và thương yêu ta vơ cùng, nhưng Ngài khơng
miễn cưỡng và nài ép ai phải đĩn nhận ơn
Ngài. Ta phải cĩ lời xin thì ơn Ngài mới
được ban cho. Chính Ngài cũng đã phán:
"Ðừng đưa của thánh cho lồi chĩ, cũng
đừng lấy hạt ngọc mà ném cho con lợn
kẻo chúng dày đạp rồi quay lại cắn các
ngươi" (Mt 7,6).
Lồi chĩ khơng ý thức và nhận ra được giá trị
của thánh thiện. Cũng thế, hạt ngọc tuy quý
nhưng chỉ quý với những người biết giá
trị của nĩ. Con lợn khơng hiểu và khơng biết giá
trị của hạt ngọc. Những giá trị này
chỉ con người mới biết. Tâm hồn nặng
nề trong vũng bùn nhơ tội lỗi, ươn ái và
trễ nải cũng giống như con lợn. Ơn thánh
Chúa quý trọng và giá trị như hạt ngọc. Nếu
lồi vật như lợn hoặc chĩ khơng hiểu và khơng
biết thì cũng khơng nên cho.
Tĩm lại, cầu nguyện khơng những trở thành cần
thiết mà cịn ích lợi cho ta, vì nĩ giúp ta cơ hội
đĩn nhận ơn Thiên Chúa. Những ơn này khơng
những cần cho đời sống tâm linh mà cịn cần
thiết cho cuộc sống trần thế của con
người. Nhưng nhất là, qua việc cầu
nguyện ta cĩ dịp thân thiết và sống gần Thiên
Chúa hơn.
Sống mật thiết với Chúa
Khi cầu nguyện, khung cảnh và thời gian, hồn
cảnh cầu nguyện, tất cả đều đem
ta tới gần Thiên Chúa, gặp gỡ Ngài và yêu mến
Ngài.
Một người con yêu cha mẹ, thảo hiếu
với cha mẹ thì những lần gần gũi,
viếng thăm cha mẹ, khơng chỉ mong được
cha mẹ chia sẻ hay chỉ dậy một vài kinh
nghiệm sống, hoặc xin cha mẹ điều này
điều khác. Nhưng những dịp như vậy
sẽ làm cho mối tình cha con, mẹ con thêm khăng khít và
thắm thiết hơn.
Trong khi cầu nguyện, ngồi việc trình bày lên Thiên Chúa
những nhu cầu và những khĩ khăn của mình, mong
Ngài ra tay ban ơn, cứu giúp; ta phải coi đây như
dịp để gần gũi, lắng nghe những tâm
tình của Ngài.
Như Gioan xưa đã dựa đầu vào ngực Chúa
Giêsu trong bữa Tiệc Ly, khi cầu nguyện ta cũng
đến gieo mình vào lịng Chúa, và lắng nghe những tâm
sự của Ngài. Khơng phải chỉ người con
mới mong tỏ bày tâm sự của mình với cha mẹ.
Cha mẹ cũng cĩ những điều muốn chia sẻ
với con cái.
Khi đối diện với những hy sinh mà Ngài sẽ
phải gánh chịu để cứu độ nhân
loại tại vườn Cây Dầu, Ðức Kitơ vì mang thân
phận con người nên với bản tính tự nhiên,
Ngài cũng cảm thấy bị xúc động một cách
mạnh mẽ. Ngài đã tìm sự yên ủi và thơng cảm
nơi các mơn đệ:
"Rồi Chúa Giêsu cùng mơn đệ đến trại kia
gọi là Giệtsimani, Ngài bảo họ: Các con hãy ngồi
đây, đợi Ta đi cầu nguyện. Ðoạn Chúa
đem Phêrơ và hai con của Giêbêđê cùng đi, Ngài bắt
đầu buồn rầu thảm não. Liền thốt lên:
Linh hồn Thầy buồn rầu đến chết
mất! Các con cứ ở đây thức cùng Thầy"
(Mt 26,36-38).
Khi thấy các ơng vì giấc ngủ bỏ quên mình, Chúa Giêsu
đã phải thốt lên: "Các con khơng thể thức
với Thiên Chúa được một giờ sao?" (Mt
26,40)
Ðiều này cho thấy một tia sáng siêu nhiên về ý
nghĩa của đau khổ. Những ai được
Thiên Chúa yêu thương, được Ngài tin tưởng
lại thường gặp trăm ngàn đau khổ và
thử thách. Cĩ lẽ vì Ngài tìm thấy nơi những
người đĩ sự cảm thơng, và tình thân đủ
để Ngài nghỉ ngơi một cách tự nhiên, khơng
sợ làm phiền họ.
Căn nhà Bêtania của chị em Lagiarơ, Mátta và Maria mà
Ðức Kitơ dùng như thí điểm truyền giáo của
Ngài, làm nơi nghỉ chân và dưỡng sức cho các
cuộc hành trình truyền giáo của Ngài, là hình ảnh
những tâm hồn đạo hạnh. ễ đĩ, Ngài
được nghỉ ngơi, an tĩnh trong khi Ngài
phải mệt mỏi với những tiếng ốn than và
chen lấn từ đồn lũ dân chúng thường ngày vây
quanh Ngài.
Theo tâm lý tự nhiên khi hai kẻ yêu nhau dù là cha mẹ
đối với con cái, anh chị em, bạn bè quen thân
đối với nhau, nhất là tình yêu của đơi tình
nhân dành cho nhau, thì sự cĩ mặt để chia sẻ
với nhau những chuyện xảy đến cho mình, cho
nhau là điều cần thiết. Những cuộc gặp
gỡ, tâm sự và trao đổi như thế làm thỏa
mãn được địi hỏi của tình yêu. Nĩ giúp
kẻ yêu nhau hiểu, và chia sẻ được với
người mình yêu.
Ðể bày tỏ lịng yêu mến đối với Thiên Chúa,
ta nên biến những giờ cầu nguyện thành
những giây phút tâm sự, lắng nghe và chia sẻ với
Ngài, hơn là đến với Ngài bằng thái độ
kèo nhèo, hoặc xin xỏ.
Trong suốt cuộc sống của Têrêxa Hài Ðồng Giêsu,
Thánh Nữ chỉ mong sao linh hồn mình là nơi cho Thiên
Chúa được an vui, được tự do
đến và tự do đi, tự do nghỉ ngơi. Thánh
Nữ khơng hề địi hỏi, khơng hề xin xỏ
một ân huệ nào. Chính vì thế, Thiên Chúa rất
thương Thánh Nữ, và con đường tu đức
của Thánh Nữ đã trở nên mẫu mực cho
những ai muốn tiến bước và thực hành
sống đời hồn thiện.
Thái độ cầu nguyện đúng nghĩa nhất, là
hãy gần gũi, lắng nghe và để lịng mình thật
cận kề bên Chúa. Trong thực tế, rất nhiều
lần ta đã đến với Chúa nhưng khơng phải
để lắng nghe, tâm sự và chia sẻ, mà chỉ
để lợi dụng, phiền hà, nhõng nhẽo,
hoặc xin xỏ điều này, điều khác.
Chỉ cĩ lắng nghe, hiểu và nhận ra tiếng nĩi
của Thiên Chúa, ta mới thực sự sống thân
mật và trở thành tri kỷ với Ngài. Ta nên biến
những buổi cầu nguyện thành những lần tâm
sự, lắng nghe và chia sẻ với Thiên Chúa. Cám tạ
ơn Ngài, chúc tụng danh Ngài vì tình Ngài bao la, và xin Ngài
tự tiện dùng ta như khí cụ "bình an" trong
sứ mạng cứu rỗi chính mình và các linh hồn,
hơn là kèo nhèo, van xin hay kể lể cho được
ơn này, ơn khác. Nếu Ngài đã biết trước
ta định xin gì khi cầu nguyện, hãy để Ngài
được tự do đối với ta:
"Trước khi các con nguyện xin, Cha các con đã
hiểu rõ các con cần gì rồi" (Mt 6,7-8).
Khung Cảnh cầu nguyện
Khung cảnh thích hợp nhất cho việc cầu
nguyện, là một nơi yên tĩnh với bầu khí thinh
lặng: "Khi cầu nguyện hãy vào phịng đĩng cửa
lại" (Mt 6,6). Yếu tố yên tĩnh và thinh lặng
sẽ giúp dễ nâng cao tâm hồn, và tạo điều
kiện tốt cho việc suy nguyện, lắng nghe, và tâm
sự với Thiên Chúa.
Khơng thấy Ðức Kitơ dậy phải cầu nguyện khi
nào, lúc nào trong ngày: sáng, chiều, hay tối, nhưng Ngài
đã nhiều lần nhấn mạnh đến khung cảnh
của lúc cầu nguyện. Chính Ngài đã thúc giục các
Tơng đồ hãy tìm nơi yên tĩnh để cầu
nguyện: "Các con hãy tìm nơi thanh vắng mà nghỉ
ngơi một chút" (Mc 6,31). Phần Ngài sau những lúc
lao nhọc trên bước đường truyền giáo,
cũng "một mình lên núi cầu nguyện" (Mt 14,23).
Lần cầu nguyện cuối cùng của Ðức Kitơ
cũng ở nơi thanh vắng là vườn Cây Dầu.
Khung cảnh yên tĩnh, thanh vắng như cảnh bình minh
trên bãi biển vào lúc ban mai, chiều về trên một
đỉnh núi, trong vườn hoa sau nhà, trong căn phịng
làm việc trước khi đi làm hoặc sau khi thức
giấc, trong phịng khách trước tượng Chúa Mẹ
lúc thanh vắng. Nhất là trong thánh đường
trước Chúa Giêsu Thánh Thể là khung cảnh mà ta nên dùng
để nâng cao tâm hồn mình lên với Thiên Chúa,
truyện vãn và giãi bày tâm sự với Ngài. Bởi vì Ngài
khơng muốn ta nĩi chuyện với Ngài giữa những
nơi huyên náo, ồn ào.
Nếu vì bận bịu cơng việc làm ăn, vì trách
nhiệm và bổn phận lo cho kẻ khác mà khơng cĩ
nhiều cơ hội trong ngày để cầu nguyện,
thì sự thanh vắng - yên tĩnh - của tâm hồn là
điều ta phải cố gắng tập luyện. Thánh
nữ Catarina Sienna dù bận bịu trăm cơng, ngàn
việc, dù sống trong khơng khí ồn ào nhưng vẫn cĩ
một nơi thanh vắng để truyện vãn với
Thiên Chúa, đĩ là tâm hồn yên hàn của Thánh nữ. Chính
Chúa Giêsu đã chỉ cho Thánh nữ thiết lập một
căn phịng yên tĩnh trong trái tim, để giữa
những bận rộn, lo lắng và bơn bà bên ngồi, Thánh
nữ cĩ thể lui vào đĩ mà nghỉ ngơi, tâm sự
với Chúa.
Ngồi sự yên tĩnh của mơi trường, thái
độ tin tưởng, phĩ thác và yên hàn thư thái của
tâm hồn, là những điều kiện thiết yếu
trong lúc cầu nguyện.
Nhiều lần ta đã cầu nguyện với Thiên Chúa
bằng một thái độ hồi nghi, bằng một tâm
hồn giao động, bồn chồn và lo lắng. Thân xác
ta ngồi trong thánh đường mà tâm hồn ở
những nơi ồn ào, náo nhiệt, hoặc đang lang thang
với những lo toan về cơng ăn, việc làm ở
một nơi khác. Những lúc như vậy, dù khung
cảnh thuận lợi, việc cầu nguyện vẫn
khơng đạt được điều kiện
để Thiên Chúa thương ban cho những ơn ta
đang cần thiết. Bởi vì ta đã khơng đặt
trọn niềm tin nơi Ngài, và bằng một thái
độ nghi ngờ, ta toan tính sự thành cơng theo ý mình.
Cầu nguyện như thế nào
Khi các Tơng đồ xin Ðức Kitơ dậy cầu nguyện,
Ngài đã dạy các ơng như sau:
"Lạy Cha chúng con ở trên Trời.
Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị
đến, ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên Trời.
Xin Cha cho chúng con hơm nay lương thực hằng ngày.
Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ cĩ
nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.
Nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ" (Mt
6,9-13).
Ngài cĩ ý dạy, khi cầu nguyện điều ta thưa
với Thiên Chúa trước hết là xin cho danh Ngài
được hiển sáng, nước Ngài được
ngự trị khắp nơi, và cho thánh ý tốt lành
của Ngài được mọi lồi suy phục, tuân theo.
Ðây là lời nguyện cầu của một tâm hồn khiêm
tốn và muốn tìm gặp ý muốn của Thiên Chúa.
Một thái độ ngoan hiền của kẻ làm con mong
cho Cha mình được mọi người biết
đến và quý mến. Cũng trong lời nguyện này,
khơn ngoan và ân sủng để sống và hồn thành cách
tốt đẹp ý nghĩa cuộc sống của mình trên
trần gian theo như ý định quan phịng của Ngài.
Như một lời nguyện truyền giáo, lời
cầu xin này cịn thích hợp với tính chất truyền
giáo của Giáo Hội. Trên con đường về nhà Cha,
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu,
sứ mạng của Giáo Hội là làm cho Thiên Chúa
được vinh danh trên khắp các dân tộc, và đem
Tin Mừng Cứu Ðộ đến với muơn dân.
Những gì ta cầu nguyện cho danh Thiên Chúa, thánh ý Thiên
Chúa, và nước Thiên Chúa cũng chính là ý nguyện
truyền giáo của Giáo Hội. Người Kitơ hữu
tham dự sứ mạng truyền giáo của mình trong
sứ mạng truyền giáo chung của Giáo Hội bằng
lời cầu xin để đem Chúa đến cho
những người thân trong gia đình, trong họ hàng,
trong các nơi mình sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày.
Ðức Giáo Hồng Piơ XII đã viết:
"Các tín hữu, nĩi một cách rộng hơn, chính giáo dân
là kẻ đứng ở mặt trận tiền phong
đời sống của Giáo Hội. Nhờ họ, Giáo
Hội trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội lồi
người. Vì thế, chính họ phải ý thức ngày
càng rõ rệt là họ khơng những thuộc về Giáo
Hội mà là Giáo Hội" (Huấn từ cho các Tân
Hồng Y, 20-02-1946).
Ðức Giáo Hồng Gioan Phaolơ II đã hân hoan tin tưởng vào
sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội khi viết:
"Ta đã thấy lĩ rạng một kỷ nguyên
truyền giáo, sẽ bừng sáng rực rỡ và nặng
trĩu hoa trái nếu tất cả mọi tín hữu;
đặc biệt, các vị tơng đồ truyền giáo và
các giáo hội trẻ đáp lại những lời kêu
gọi và thách đố của thời đại với
lịng quảng đại và sự thánh thiện" (Sứ
Mạng Ðấng Cứu Thế, số 92).
Người con thảo lúc nào cũng hiểu biết và mong
làm đẹp ý cha mình. Thái độ tốt nhất
của một Kitơ hữu khi cầu nguyện là lưu tâm
đừng để Thiên Chúa là người Cha Nhân Lành
phải khĩ xử. Ðừng xin gì nghịch với ý Ngài.
Nhất là đừng mang tâm trạng của kẻ mè nheo,
xin xỏ. Xin xỏ và kèo nhèo là thái độ của
người ngồi, của kẻ ăn xin, của
người làm mướn, tiêu cực và vụ lợi.
"Những gì của cha là của con" (Lc 15,31).
Người Kitơ hữu yêu mến Thiên Chúa và kết hợp
mật thiết với Ngài trong hạnh phúc viên mãn, khơn cùng
của Ngài cũng phải lấy làm hạnh phúc và thỏa
mãn như thế. Là Thiên Chúa tồn năng và từ bi, Ngài khơng
thể để cho ai tin tưởng, yêu mến, và phĩ thác
nơi Ngài bị thiệt thịi.
Nhưng để con người ý thức thân phận
lữ hành của mình, Ðức Kitơ nhắc ta phải rất
thực tế về những nhu cầu mình xin. Một
trong những nhu cầu thiết yếu cho mọi
người là nhu cầu cơm bánh. Tuy vậy, Ngài cũng
chỉ dạy ta hãy xin vừa đủ: "Xin cho chúng con
hơm nay lương thực hàng ngày" (Lc 11,3). Ngài khơng
muốn ta quá tham lam, nhưng cũng khơng nên quá phiền hà,
lo lắng. Ðể củng cố niềm tin vào sự quan
phịng của Thiên Chúa, Ðức Kitơ đã nĩi: "Hãy nhìn xem chim
trời, chúng khơng gieo vãi, cũng chẳng gặt hái,
cất chứa vào kho lẫm, vậy mà Cha trên trời
vẫn nuơi chúng. Các con khơng trọng hơn chúng sao" (Mt
6,26).
Khơng muốn ta đừng quá bận tâm, lo lắng về
của cải vật chất, Ðức Kitơ dạy ta qui
hướng cuộc đời vào những giá trị tinh
thần. Ngài lưu ý ta về những lỗi lầm và
khuyết điểm để xin Thiên Chúa tha thứ.
Là con người yếu đuối, nhiều lần ta
đã vơ tình hoặc cố ý gây đau khổ cho anh chị
em mình, và xúc phạm đến Thiên Chúa. Do đĩ, ta phải
khiêm nhường xin ơn tha thứ: "Xin tha nợ chúng
con", bằng một tinh thần tha thứ mà Ngài
muốn ta cĩ đối với anh chị em: "Như
chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con" (Lc 11,4). Tha
thứ cho anh chị em mình. Khơng để lịng thù ghét, ốn
hờn, hoặc ghen tị. Hơn thế nữa, theo
lời Ngài dạy, ta cịn phải thương yêu kẻ thù
và cầu nguyện cho họ nữa.
Qua hành vi khiêm nhường xin ơn tha thứ, Thiên Chúa
muốn dạy ta rằng Ngài muốn anh chị em - con cái
Ngài - phải sống hịa thuận với nhau. Người
này lấy lịng từ tâm, khiêm tốn mà chịu đựng
và tha thứ cho người khác. Tinh thần này Ngài coi
như cốt lõi và là điều kiện để các
lời cầu xin của tất cả đáng
được Ngài chấp nhận:
"Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn
thờ mà sực nhớ ra anh em mình cĩ điều chi
bất hịa với ngươi. Hãy để của lễ
ngươi trên bàn thờ, đi làm hịa với anh em đã,
rồi ngươi hãy đến dâng của lễ" (Mt
5,23-24).
Sau cùng, ta xin Thiên Chúa cho được tỉnh thức luơn
luơn đề phịng mọi mưu mơ thâm độc của
quỉ dữ: "Xin chớ để chúng con sa
chước cám dỗ" (Lc 11,4), đĩ là hành động
theo đam mê, theo tập quán xấu, hoặc theo bản
năng tự nhiên. Nhưng nhất là xin Ngài ban cho những
ngày ta đang sống trên trần gian được bình an
và hạnh phúc: "Xin cứu chúng con khỏi mọi sự
dữ" (Mt 6,13). Sự dữ do chủ ý ác độc
con người muốn gây ra để làm thiệt hại
và mất hạnh phúc của nhau. Sự dữ do ma quỷ
xui khiến và cám dỗ. Tai hại nhất là "tội
lỗi", vì tội là một sự dữ xấu xa và
đáng ghê tởm. Khi phạm tội là ta chống lại
với Thiên Chúa bằng cách bất tuân phục các giới
luật của Ngài, phủ nhận tình thương và
sự hiện hữu của Ngài, hoặc bằng cách xúc
phạm tới tha nhân.
Tĩm lại, người Kitơ hữu cầu nguyện khơng
chỉ là năn nỉ, kèo nhèo, hay kêu rêu điều này,
điều khác. Cầu nguyện là hướng tâm hồn
lên với Thiên Chúa, lắng nghe và tâm sự với Ngài
như thái độ của Maria khi ngồi dưới chân
Ðức Kitơ, nghe và nĩi với Ngài. Vì vậy, khi cầu
nguyện điều gì, trước tiên ta phải tin
tưởng và phĩ thác điều mình xin cho Thiên Chúa. Chỉ
trình bày, chỉ đưa ra những nhu cầu mình hiện
thấy thiếu thốn và cần thiết rồi
để Ngài tự do quyết định. Ngài muốn ban
khi nào, ban bao nhiêu, hay khơng ban cho điều ta đang mong
muốn là tùy Ngài. Phần ta, hãy lấy những giờ
cầu nguyện như cơ hội thuận tiện
để nối lại tình thân giữa ta với Thiên Chúa.
Theo thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu:
"Cầu nguyện chỉ là một cơn lịng sốt
sắng, một liếc nhìn lên trời, một tiếng kêu
tri âm, một lời nĩi tình giữa lúc phải gian nan túng
cực, cũng như khi được bình an thư
sướng; và nữa, cầu nguyện là một cái gì cao
thượng, siêu nhiên cởi mở lịng, phơi giãi linh
hồn, trao đi đổi lại tâm tình, để
được kết hiệp cùng Chúa cách chí thiết"
(Một Tâm Hồn, tr. 241)
Hình thức cầu nguyện
Sau đây là một vài hình thức cầu nguyện mà
mỗi Kitơ hữu hoặc trực tiếp, hoặc gián
tiếp mỗi ngày nên làm:
- Suy nguyện, và những lời nguyện tắt.
- Ðọc kinh, nhất là Kinh Mân Cơi.
- Ðọc các sách tinh thần cĩ giá trị, đặc
biệt là Phúc "m.
- Tham dự các bí tích, nhất là thánh lễ.
(Cầu nguyện - trích trong Sống Ðạo Giữa
Ðời - một tác phẩm Tu đức được
viết dưới nhãn quan một Kitơ hữu, sẽ
được xuất bản nay mai do chính tác giả)