Đường
Dâng Hiến
Nhân Ái
(Viết cho các bạn trẻ đã và đang phân
vân, ngập ngừng hay bối rối trong quyết định dấn thân phục vụ Thiên Chúa và
tha nhân. Đặc biệt riêng tặng nhóm "Tìm Hiểu Ơn Gọi" tại |
Thời xưa ơn gọi thường được hiểu một cách hạn hẹp là đi tu
làm linh mục hay, bà sơ dì phước; nhưng ngày nay, đặc biệt sau công đồng
Vatican II, ơn gọi được hiểu cách rộng rãi hơn, bao gồm nhiều hoàn cảnh, nếp
sống và dấn thân trong cương vị, vai trò của mình. Người thì ở độc thân làm nhà
truyền giáo phương xa, kẻ thì lập gia đình sinh con đẻ cái. Người làm giáo
chức, kẻ làm thương gia. Có ngưòi vui đời quân ngũ, có
kẻ vui thú điền viên. Nhưng cũng có người dấn thân phụng sự
Thiên Chúa và tha nhân trong đời sống tu trì. Tất cả
đều là ơn gọi và đều sống ơn gọi của riêng mình. Điều làm cho ơn gọi của
mình sáng lên và thêm ý nghĩa là sống ơn gọi của mình cánh trọn vẹn.
Trong giới hạn nhỏ bé của bài chia sẻ này, người viết muốn bàn
riêng về ơn gọi tu trì, và đề cập đến một vài khiá cạnh nhỏ trong tiến trình
tìm hiểu về cuộc đời dâng hiến dưới những tiểu mục như "Ai được mời
gọi", "Chọn lựa nào cũng có hy sinh", "Aỏ tưởng trong đời
tu" và "Vui buồn đời dâng hiến". Hy vọng những chia sẻ mộc mạc
nhưng chân thành này giúp giải đáp được phần nào những thao thức, suy tư của
các bạn trẻ trong việc tìm kiếm và lựa chọn một hướng đi thật ý nghiã cho đời
mình.
Ai được mời gọi ?
Mọi người bất luận ở lưá tuổi nào hoặc giai cấp
gì đều được mời gọi để rao giảng Tin Mừng và xây dựng nước Chúa. Nhưng mỗi người tùy theo cá tính, tài năng, sở thích và ơn
Chúa ban cho, được kêu mời để phục vụ Chúa và tha nhân trong nhiều sứ mệnh và
môi trường khác nhau. Vì thế đời tận hiến cũng có nhiều cách.
Có người bản tính trầm lặng, sống nhiều về nội tâm, thích yên tĩnh lại thích
hợp với nếp sống chiêm niệm của các dòng nữ như Ca mê lô (Camelite), Chúa Cứu
Thế (Redemptoristine) hay dòng nam như Biển Đức (Benedictine), Xitô
(Cistercian). Người khác lại ưa thích lối sống triều phóng khoáng, năng động,
ồn ào, sôi nổi. Họ thích chăm sóc các xứ đạo để được cận kề, giúp đỡ và chia sẻ
buồn vui với giáo dân mỗi ngày.
Để phục vụ Chúa và giáo hội, cần nhiều sứ mệnh
và hình thái khác nhau như chúng ta thấy trong Thánh Kinh. Thiên Chúa đã gọi rất nhiều người, từ Abraham để làm tổ
phụ dân Israel; Môi sen để giải thoát dân Ngài khỏi kiếp lưu đày bên Ai cập;
Giê rê mi a làm tiên tri cho các chi tộc Israel, rồi Gia cóp, Sa mu en, vân
vân. Trong Tân Ước, Chúa đã gọi Phê Rô, Gia cô bê, Phi líp phê, Gio an từ những
ngư phủ tầm thường, đơn sơ và đặt làm tông đồ rao giảng về nước Chúa. Phao lô,
kẻ vô thần bắt đạo gay gắt nhất được ơn gọi trở lại làm tông đồ nhiệt thành và
là tác gỉa của những bức thư mục vụ hàm chứa những tư tưởng thần học và luân lý
cao siêu như thư gởi cho gíao đoàn Rô ma, Cô rin tô, Ga la ta, Ê phê sô, Phi
líp phê, Thes sa lô ni ca, vân vân. Một Phê rô bất tài vô tướng, nóng nảy, bất
trung, dốt nát, thế mà Đức Giê Su đặt Phê rô làm đầu hội thánh. Những điều ấy chẳng phải là huyền nhiệm về ơn gọi làm tông đồ sao?
Tóm lại, Chúa kêu mời tất cả mọi người. Điều quan trọng là
chúng ta có nhận ra tiếng Ngài và có sẵn sàng đáp trả hay không. Ơn gọi là một
giao kết hỗ tương bất thành văn giữa ta và Thiên Chúa, một quyết định và chọn
lựa song phương - Chúa chọn ta và ta chọn Chúa. Nói cách thực
tế hơn, Chúa mời gọi, ta đáp trả. Thiếu một trong hai vế, ơn gọi sẽ
không vững bền.
Đức giáo hoàng Gio an Phao lô II trong lần nói chuyện với
giới trẻ tại Colorado Hoa kỳ năm 1993, ngài kêu mời giới trẻ hãy lắng nghe
tiếng Chúa. Ngài tâm tình như sau: "Cha mời gọi các bạn hãy lắng nghe
tiếng Chúa nói trong tâm hồn, bởi vì mỗi người đều được kêu gọi để hiệp thông
với Chúa; đó chính là lý do ngài dựng nên chúng ta, để tìm biết Ngài, Yêu mến
và phục vụ Người. Và khi làm như vậy là bạn đã tìm được bí quyết vui vẻ, lạc
quan muôn đời". Thật giản dị thay bí quyết lạc quan - nhiệm mầu thay con
đường dâng hiến!
"Tôi phải làm gì cho quãng đời còn
lại?" Ai mà không tự hỏi một
câu tương tự khi đứng trước ngả rẽ cuộc đời! Đến một lúc nào
đó rồi chúng ta cũng phải quyết định cho mình một hướng đi trong đời. Trước khi quyết định, ta phải chọn lựa lý tưởng thích hợp. Đây chính là lúc bối rối, phân vân, ngập ngừng. Ai lớn lên mà chẳng trải qua kinh nghiệm này. Khi đứng trước
ngả rẽ cuộc đời mới thấy việc chọn lựa một hướng đi cho tương lai mình là điều
thiên nan vạn nan. Sở dĩ khó chọn là
vì xã hội ngày nay mở ra rất nhiều lối cho tương lai chúng ta. Bạn có
thể là diễn viên điện ảnh, cô hay thầy giáo, nhà thiết kế thời trang, y tá, nha
sĩ, luật sư, nhân viên ngân hàng, bưu điện, thư ký, công chức, vân vân. Vì
chúng ta được tự do chọn lựa hướng đi cho mình, nên càng bối rối và sợ hãi hơn
khi nhận ra rằng chúng ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của
chính mình. Điều làm cho sự chọn lựa hướng đi trở nên khó khăn là: nếu ta chọn
điều này thì thường phải hy sinh điều kia. Thí dụ muốn học luật sư thì không thể học y tá cùng một lúc; hoặc
chọn đời sống gia đình thì không thể đi tu hay ngược lại. Nói chung, lựa chọn nào cũng mất mát và hạnh phúc nào cũng phải
trả gía bằng đắng cay. Âu cũng là định luật của cuộc đời.
Tuy nhiên, sự mất mát ít hay nhiều còn tùy thuộc vào sự chọn lựa khôn ngoan,
thận trọng của chúng ta.
Làm gì chẳng có những chàng hay nàng ngậm ngùi rơi lệ, âm
thầm đau khổ khi nghe tin bạn đi tu! Làm gì mà bạn chẳng nhận được những lá thư
"tuyệt mạng" than vắn thở dài, than thân trách phận, giằng co níu
kéo, năn nỉ ỉ ôi!? Nào là "Kiếp này chúng ta vô duyên,
thì thôi đành hẹn lại kiếp sau", hay trách móc, ai oán hơn "Em/ anh
đi qua đời anh / em không nhớ gì sao em/ anh"? Là con người, rơi
vào những hoàn cảnh "bỏ thì thương vương thì tội" tương tự, ai mà
không mủi lòng, thương cảm, xót xa!? Tuy nhiên, nếu chúng ta cứ để cho nội tâm
xâu xé , giằng co, giày vò... thì biết đến bao gìơ ta
mới thoát khỏi "mê hồn trận" của tình trường? Chẳng lẽ ta cứ để tình
trạng này kéo dài mãi, chỉ làm đau lòng nhau thôi. Đã thế khi nhìn lại mình thì
"đời đã xanh rêu"!
Chắc chắn bạn và tôi, chúng ta không thể để mặc cho dòng
đời cuốn trôi, phó thác cho vận số. Rồi cũng đến lúc chúng ta phải vùng dậy,
hùng dũng, tự tin để quyết định, để chọn lựa lý tưởng cho đời mình. Tuy nhiên, điều làm cho sự chọn lựa thêm phần khó khăn là ta không
thể tiên đoán được kết qủa chắc chắn điều đã chọn lựa. Liệu ta có thể
trở thành cô y tá sau ba, bốn năm học không? Hay học xong bằng luật rồi, có xin
được việc làm chăng? Có chắc là ta đi tu sẽ "đắc
đạo" không? Hay "nửa đường đứt ... gánh"? Không ai biết chắc chắn được việc tương lai. Vì thế, nói theo một nghĩa nào đó thì tất cả mọi chọn lựa hay quyết định
của chúng ta đều mang ít nhiều yếu tố "rủi may". Là thân phận con
người, tất nhiên phải chấp nhận thực tế này. Nếu ta cứ sợ "rủi" mà
không quyết định gì cả, cứ mãi do dự, ngập ngừng, phân vân, thì chúng ta cũng
giống như chiếc xe đang ở trên xa lộ, cứ chạy hoài mà
không muốn rẽ ra. Nhưng ngay cả xa lộ rồi cũng đến chỗ phải rẽ, cuối đường.
Không có xa lộ nào hun hút, vô định. Cuối cùng rồi ta cũng
phải chấp nhận rẽ vào lối nào đó trong đời mình. Chúng
ta không thể chạy mãi được, trừ khi ta muốn buông trôi đời mình.
Chọn lựa của ta phải được tự do và độc lập, không bị bạn bè
lung lạc, không bị áp lực gia đình, không bị xã hội ảnh hưởng. Dĩ nhiên để đi đến một chọn lựa độc lập như thế cần có nghị lực,
can đảm và nhiều thời giờ suy tư, cân nhắc, cầu nguyện, linh hướng.
Hết thảy chúng ta được mời gọi để trở nên hoàn thiện, để
yêu thương, để hy sinh, hiến thân, để xem Giê Su là tâm điểm của đời sống, và
đặt những gía trị của Ngài trước hết và trên hết mọi sự. Điều cần là chúng ta
phải quyết định sau khi đã cân nhắc kỹ càng. Cho dù chọn lựa
ấy sau này ta mới biết là sai lầm. Chả hề chi, Chúa không sửa phạt chúng
ta đâu, miễn là ta tin tưởng, phó thác và chân thành trong điều đã chọn.
Tu hành ngày nay không còn được hiểu như phải chôn mình
trong bốn bức tường, hay như một nữ tu nào đó tuyên bố cách tiêu cực là
"người tù chung thân của Đức Kitô". Bên trời
Tây này chủng viện cũng như dòng tu dành rất nhiều sự dễ dãi, tự do cho các tu
sinh. Bề trên hay giám đốc đối xử với tu sinh rất thân mật, cởi mở, chân thành.
Tu sinh được xem như một người trưởng thành và bình đẳng trên
phương diện nhân bản và nhân vị. Phần đông sinh hoạt, ăn uống và làm
việc chung với nhau.
Tu sĩ ngày nay không còn được xem là thành phần trí thức
duy nhất, hiểu biết "thông thiên đạt địa" nữa. Trình
độ dân trí thời nay rất cao. Họ cũng học thần học, triết học, mục vụ,
giáo luật, tu đức, luân lý như một tu sĩ. Không những chỉ học mà thôi, mà còn
rất nhiều vị là thần học gia hay học gỉa Thánh Kinh lẫy lừng.
Nếu có người xem đời tu sĩ, linh mục là một vinh dự, hào
quang, đi đâu cũng được người đời tôn kính, sùng bái, thán phục, trọng vọng, nể
vì ... thì hãy coi chừng! Ở Tây phương, linh mục, tu sĩ chả là cái gì cả, cũng
chẳng hề được ân huệ gì, mà không chừng còn là đối tượng cho người khác dè bỉu,
đố kỵ, chà đạp; thậm chí còn mang cả lên truyền hình, báo chí mà công kích,
thóa mạ. Tu sĩ ngày nay chỉ còn biết tìm nguồn an ủi
qua lời Chúa: "Vì danh ta các con sẽ bị khinh chê" (Mk
Có nhiều người mang ảo tưởng cứ đi tu là sẽ nhập
"c"i phúc" ngay; còn tình là "giây oan" nên trốn đời,
trốn người, thất nghiệp, thất tình đều chạy đến tìm an ủi hay giải đáp nơi chốn
"thiền môn". Đường dâng hiến không phải vậy.
Tận hiến là tự do và thực lòng yêu mến và thiết tha phục vụ Thiên Chúa qua con
người chứ không phải chạy trốn những thực tại bi đát, não lòng ... Có niềm vui
và an bình thực sự mới mong phục vụ tích cực và đắc lực cho giáo hội và xã hội.
Mượn bình phong tu hành để giết thời gian hay mưu cầu ích lợi riêng tư là tự
dối lòng mình và lừa gạt cả Thiên Chúa. Làm sao đem tin tưởng vào chốn nghi nan khi lòng ta còn tràn ngập hoài nghi, ngờ vực. Đem trông
cậy vào nơi thất vọng thế nào được lúc lòng ta còn chất chứa đầy tuyệt vọng,
não nề. Đem ủi an đến chốn u sầu sao được khi chính
lòng ta muộn phiền dâng chất ngất. Nói một cách cụ thể là chỉ khi nào trí ta
tĩnh, tâm ta định thì mới mong trở nên "khí cụ bình an"
của Chúa.
Lại có nhiều cha mẹ dâng con cho Chúa vì nghĩ rằng nó khó
dạy, rắn mắt nên nhờ "nhà Chúa" cảm hóa dùm. Biết đâu mai này
"ông trời đi vắng" sẽ thành linh mục hay dì phước, làm vẻ vang dòng
tộc, như thể "một người làm quan cả họ được nhờ" (sic!). Anh em trai
được gọi là "quan bác, quan chú" , nữ thì
"quan cô" cơ mà! Tha hồ vênh váo, nghênh ngang. Thời
ấy đã qua rồi. Hơn nữa, làm dì làm cha là để phục vụ
chứ không phải để được phục vụ (Mt
Nếu ta nghĩ rằng linh mục tu sĩ ngày nay có thế lực, điạ
vị, quyền uy; được hầu hạ hết mình, được "tiền hô hậu ủng", ho ra lửa
mửa ra khói, thì nên xét lại. Ở xứ tự do này, chính mình phải
tự tạo nên gía trị và danh dự cho riêng mình bằng chính nỗ lực và nhân cách của
bản thân. Không ai có quyền hưởng nhờ danh dự mà người
khác nhọc công tạo nên. Liêm sĩ của người tận hiến
không cho phép làm như vậy.
Trong cái "rủi" thường có cái "may".
Chính trong sự dửng dưng, bất cần tu sĩ của xã hội hôm nay đã làm cho họ trưởng
thành và nhìn lại bản sắc và thái độ sống của chính mình. Xã hội càng dửng dưng
đối với tu sĩ thì giá trị phục vụ dấn thân của họ càng sáng ngời; vì điều ấy
phản ảnh lòng vị tha và xả thân phục vụ vô vị lợi của người dấn thân mà mã lợi
danh không thể khuất phục hay làm cho họ chùn bước.
Ngày nay tuy ơn gọi tận hiến đang gặp khủng hoảng trầm
trọng, nhưng không vì thế mà lý tưởng tận hiến phục vụ bị lu
mờ. Vai trò và sứ mạng người tu sĩ trong xã hội hôm nay được đức giám mục John
Quinn của giáo phận San Francisco nhấn mạnh như sau: "Không có một thời
đại nào quan trọng cho tu sĩ như thời đại này, bởi vì họ phải đứng hiên ngang
giữa xã hội đen tối, vô vọng; một thế giới vô trung tâm, và những người tu sĩ
này sẽ phải xác quyết rằng mình có một trung tâm tinh thần thực sự".
Cũng như muôn vàn ơn gọi khác, đường dâng hiến bao gồm hân
hoan và thánh giá. May mắn thành công cũng lắm, nhưng gieo
neo thất bại cũng nhiều. Lúc thì được an ủi vỗ về, khi thì cô đơn trống
vắng. Michael Quoist đã có lần chân thành thốt lên: "Chỉ một mình con đây
lủi thủi cô đơn giữa rừng người xôn xao nhộn nhịp; giữa sa
mạc mênh mông, giữa quê người xứ lạ, giữa đêm đen gía lạnh cuộc đời". Bằng
chỉ một câu ngắn gọn Bernados diễn tả thật sâu sắc thâm trầm nỗi cô đơn trống
vắng ấy: "Con chết từng đêm để sống lại từng ngày". Tâm tình lạc lõng,
cô đơn ấy không phải chỉ tìm thấy nơi những kẻ dấn thân phục vụ hôm nay, nhưng
chính thầy Giê su đã tâm sự và tiên báo những thử thách, lạc l"ng trong
đời tận hiến qua lời thở than: "Con chim có tổ, con chồn có hang, còn con
người không có chỗ gối đầu" (Lk 9:58). Ngoài những cô đơn, xa lạ, lẻ loi,
lạc lõng giữa dòng đời, người tu sinh còn phải đối đầu với những thách đố, hiểu
lầm, ngộ nhận, cám dỗ, hy sinh. Nào là chương trình đào tạo kéo dài như bất
tận; thiếu thốn phương tiện đi lại, làm việc, xa gia đình, trở ngại ngôn ngữ,
văn hóa dị biệt. Nào là gánh nặng học hành, hội họp, mục vụ, tĩnh tâm, phụng vụ,
công tác, kinh kệ. Mỗi việc là một cái "chết" nho nhỏ cộng vào cái
"chết" lớn là lạc l"ng cô đơn. Ấy là chưa kể đến đời sống chung. Ở đời cái gì "chung" thì
dễ "đụng". Nếu chúng ta sống theo kiểu Á Đông, cứ nhẫn nhục,
chịu khó "né" hoài để khỏi "đụng", thì rồi một ngày nào đó
khi "chịu khó" hết nổi, sẽ sinh ra "khó chịu". Thật là tiến
thối lưỡng nan!
Tuy nhiên, ở đời luôn có luật bù trừ. Có
buồn thì cũng có vui. Có lúc cô đơn tủi phận, thì cũng có lúc được an ủi vỗ về. Phận số ta nằm trong sự an
bài của Thiên Chúa. Ngài đã chọn ai thì ban thêm ơn cho người ấy. Ngài nâng đỡ,
tăng sức, bù đắp để họ xứng đáng và có đủ can đảm để đi trọn con đường dâng
hiến. Chúa phán cùng Phao Lô rằng: "Ơn của ta đủ cho ngươi và sức mạnh ta
được bày tỏ trong sự yếu đưối của ngươi" (2Cor 12: 9) Lẽ nào ta hoài nghi
lời Ngài. Có những lúc tinh thần ta xuống thật thấp, nhưng cũng có khi lên thật
cao. Lúc thì thăng trầm trôi nổi, khi thì an nhiên tự tại, hạnh phúc an bình.
Lời trăn trối cuối cùng của dì Euthymia với các chị em cùng
dòng thực là thắm thiết chí tình, diễn đạt được toàn thể triết lý và lý tưởng
của đời hiến dâng, dì thều thào: "Tôi phụng sự Thiên Chúa và mọi người,
lương bổng tôi chỉ là sự bình an". Những ai hiến thân phục vụ tha nhân
trong ơn gọi tru trì sẽ cảm thấy thấm thía khi đọc lời trăn
trối ấy. Phải chăng chị Euthymia đã cảm nhận và thấm nhuần tinh thần phục vụ
siêu phàm của thánh Phan Xi Cô khó khăn: là xin cho được ơn an
bình.
Cho dù tu sinh phải đương đầu với nhiều cái
"chết", nhưng khuất phục được chúng rồi mới thấy quý. Khi ấy trí ta tĩnh, tâm ta định.
Ta tìm thấy bình an. Thứ bình an thật sự mà Đức Giê Su
sau khi sống lại đã yêu thương cầu chúc cho môn đệ Ngài (Jn
Tất cả chúng ta đều được mời gọi để phục vụ và
mở rộng nước Chúa nơi trần thế. Đừng sợ
thiếu khả năng, kém tài đức. Điều cần là thái độ chân thành đáp trả tiếng gọi
của Ngài với tất cả thiện chí và thiện ý. Vì khi thực sự dấn thân theo Chúa, chúng ta chỉ còn như cái xác không để Ngài thổi
đầy sức sống thần linh của Ngài vào. Thánh Phao Lô đã cảm nhận được điều này
sau khi được Chúa kêu gọi, nên đã thốt lên: "Từ nay tôi không còn sống nữa
nhưng chính Chúa Ki tô sống trong tôi" (Gal
Theo quan
điểm thần học thì phục vụ thực sự là chết đi cho ý riêng, tâm tư, ước vọng của
mình để qua đó quyền năng và thánh ý Thiên chúa được thể hiện. Nhìn theo nhãn giới tu đức học thì tận hiến phục vụ là tập
"chết đi từng đêm để được sống lại từng ngày".
Người tận hiến phục vụ tìm thấy kim
chỉ nam cho đời mình qua tinh thần của Kinh Hòa Bình. Và đường tu đức cao siêu
nhất của thánh Phan Xi Cô khó khăn được biểu lộ qua triết lý sống của ngài: đó
là khi dâng hiến chính là lúc được lãnh nhận; lúc quên mình là khi được sở hữu
chính mình, và khi chết chính là khi được sống viên mãn. trước
thánh Phan Xi Cô, Đức Giê Su đã xác quyết điều ấy: "Ai hy sinh mạng sống
vì ta và vì phúc âm sẽ cứu được thân mình" (Mk
Cầu xin Thiên Chúa soi sáng, hướng dẫn để chúng ta biết
chọn lựa ơn gọi cho mình cách khôn ngoan và thích hợp. Cùng xin Ngài ban cho ơn
can đảm và dứt khoát để ta không còn phân vân, ngập ngừng trong quyết định bây
giờ và tương lai.
Nhân Ái